từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng

Sau khi đứng bật khỏi yên sau, Osanai-san vuốt thẳng chiếc váy trong lúc tôi đang loay hoay khóa chiếc xe lại. Qua tấm kính trước tiệm, tôi trông thấy vài vị khách đang xếp hàng vì hôm nay là ngày cuối cùng để có thể mua được món bánh tart dâu chỉ giới hạn vào mùa xuân mà Nàng cắn răng im lặng và nhận ra lão đang từ từ đè xuống trên lưng nàng, ép nàng nằm sấp xuống giường. nàng bước ra và nhìn thấy lão Khoát đang đứng ở chỗ tiền phòng đưa mảnh giấy cho cái gã gầy gò lái xe chở nàng lúc sáng và vỗ vai gã dặn dò nho nhỏ điều gì Thực ra, từ chiếc xe mà bác sĩ Lâm lái có thể nhìn ra, điều kiện gia đình Lâm gia cũng tương đối khá giả. Đương nhiên, với phận ở rể của mình bây giờ cũng là bằng chứng cho thấy, nếu gia đình không có tiền không có điểm tựa thì cũng khó mà có ai tới ở rể được. Chiếc xe tải kéo lê xe máy cùng cô gái dưới gầm rồi tiếp tục lao về phía trước và chỉ dừng lại khi tông gãy một cây xanh ven đường. Đến 17 giờ ngày 24-2, Công an thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương vẫn đang khám nghiệm hiện trường để điều tra vụ tai nạn xe tải và Giá Từ 2,789,000,000 ₫ 2,593,000,000₫. Discovery Sport là sự kết hợp tuyệt hảo giữa thiết kế đỉnh cao, công nghệ tiên tiến và sự linh hoạt vượt trội tạo nên một chiếc SUV 7 chỗ cỡ nhỏ đẳng cấp của Land Rover. 02 phiên bản: Discovery Sport SE (2019) 7 chỗ: 2.789.000.000đ Wenn Ein Mann Sich Nicht Treffen Will. Đề bài Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâu vào phía trong có một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ, chiếc xe sơn màu vàng tươi và to lớn gấp đôi một chiếc xe tăng. Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân. Lão đàn ông lập tức trở lên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn "Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!". Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy. Tất cả mọi việc xẩy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới. Bóng một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác – thằng bé trên rừng xuống vừa nằm ngủ với tôi từ lúc nửa đêm. Thằng bé cứ chạy một mạch, sự giận dữ căng thẳng làm nó khi chạy qua không nhìn thấy tôi. Như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm, mặc cho tôi gọi nó vẫn không hề ngoảnh lại, nó chạy tiếp một quãng ngắn giữa những chiếc xe tăng rồi lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông. Cũng y hệt người đàn bà, thằng bé của tôi cũng như một người câm, và đến lúc này tôi biết là nó khỏe đến thế! Khi tôi chạy đến nơi thì chiếc thắt lưng da đã nằm trong tay thằng bé, không biết làm thế nào nó đã giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên. Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát. Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu, SGK Ngữ văn 12, NXBGD 2008, tr 72-73 Phân tích phát hiện của nghệ sĩ Phùng được thể hiện ở đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét tình huống nhận thức trong tác phẩm. Dàn ý chi tiết I. MỞ BÀI - Giới thiệu tác giả, tác phẩm Tk mở bài chung - Nêu vấn đề cần nghị luận Đoạn trích "Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng.. lảo đảo ngã dúi xuống cát" thuộc phần đầu của truyện đã diễn tả phát hiện của nghệ sĩ Phùng, từ đó góp phần thể hiện một tình huống truyện có tính nhận thức. II. THÂN BÀI 1. Khái quát - Khái niệm tình huống truyện Đối với truyện ngắn, tình huống giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, nó chính là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất. Bên cạnh đó, từ tình huống truyện, các sự kiện, biến cố của cốt truyện được phát triển, tính cách nhân vật được bộc lộ. Nói cách khác thìtình huống truyện như một thứ nước rửa ảnh làm nổi hình, nổi sắc nhân vật . Việc giải quyết những mâu thuẫn, xung đột trong tình huống truyện sẽ bộc lộ rõ tư tưởng chủ đề của tác phẩm và dụng ý nghệ thuật của tác giả. Việc sáng tạo nên các tình huống độc đáo biểu hiện khả năng quan sát, khám phá bản chất cuộc sống, bản chất con người của nhà văn. Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm "Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng chỉ qua một lát cắt ấy thấy được cả vòng đời thảo mộc trăm năm". Với quan niệm như vậy nên trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra tình huống truyện hết sức độc đáo. - Tính huống truyện ở đoạn trước Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng phòng khó tính đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng quyết định đến vùng biển từng là chiến trường cũ nơi anh từng chiến đấu, ở đó anh có người bạn chiến đấu là Đẩu, hiện là chánh án tòa án huyện. Với tâm thế của một người nghệ sĩ chân chính khao khát cái đẹp, Phùng đã mai phục ở bãi biển này suốt gần một tuần mà chưa chụp được bức ảnh nào ưng ý. Sau khi suy nghĩ, tìm kiếm, Phùng quyết định sẽ thu vào tờ lịch tháng bảy của bộ lịch năm sau cảnh thuyền thu lưới vào lúc bình minh. Và buổi sáng hôm ấy, bất ngờ anh lại gặp được một cảnh "đắt" trời cho, cảnh mà theo Phùng suốt đời cầm máy anh chưa gặp được một lần. Cảnh đẹp như "một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ", một "vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích", mà đứng trước cảnh tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái tim mình thắt lại, bối rối. Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến tuyệt đỉnh, Phùng tưởng như đã "khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn". Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, nhận ra vai trò thực sự của nghệ thuật. Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật vào ống kính của mình. 2. Phát hiện của Phùng trong đoạn trích Bức tranh hiện thực đời sống nghiệt ngã Trong đoạn trích, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tiếp tục thể hiện những khám phá, phát hiện về nghệ thuật và đời sống, khiến tình huống truyện được phát triển. Éo le thay khi con thuyền ngư phủ đẹp như một giấc mơ trong bức tranh nghệ thuật đẹp một cách toàn bích ấy tiến vào bờ thì bước xuống từ đó không phải là những con người đẹp và toàn thiện như cổ tích mà là một người đàn bà xấu xí, một người đàn ông độc ác và một màn bạo lực gia đình khiến cho không chỉ Phùng mà người đọc cũng sửng sốt và đau đớn. Bạo lực gia đình lại diễn ra ngay sau chiếc xe rà phá mìn của Mĩ trên bãi cát, và gã đàn ông đánh vợ bằng chiếc thắt lưng da của lính Ngụy. Phải chăng cái ác mà Mĩ Ngụy gieo xuống đất nước ta còn không khủng khiếp bằng cuộc chiến giữa cái thiện với cái ác trong cuộc sống hòa bình. Hay đó là hậu quả của cuộc chiến tranh vẫn hiện hữu ngay cả khi hòa bình lập lại. Tưởng rằng cuộc chiến đấu giành độc lập tự do ta đã giải quyết được trọn vẹn, mang lại niềm vui cho mọi người. Nhưng sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng còn biết bao vấn đề đặt ra Đói kém, bệnh tật, bạo lực gia đình.. Dấu tích của chiến tranh để lại không chỉ là mấy cái xe hỏng mà hơn nữa là cuộc sống đói nghèo, lạc hậu của những người như hai con người bất hạnh kia. Người đàn bà từ dáng vẻ đến hành động đều thể hiện sự bất lực, buông xuôi và cam chịu thể hiện qua cánh tay buông thõng, đôi mắt nhìn xuống dưới chân khi "đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân". Tiếp đó, Phùng lần lượt chứng kiến những cảnh tượng vô cùng đau lòng. Lão đàn ông hàng chài ra sức đánh người vợ khốn khổ một cách tàn bạo. Với môt vẻ "hùng hổ, mặt đỏ gay", lão đàn ông dùng chiếc thắt lưng lính ngụy ngày xưa để đánh vợ"chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà". Trong cơn giận dữ như lửa cháy, lão vừa nghiến răng ken két vừa dùng hết sức lực để dùng chiếc thắt lưng quất tới tấp vào người đàn bà. Không chỉ đánh vợ tàn độc mà lão đàn ông còn ra sức chửi rủa. Mỗi nhát quất xuống là một câu nguyền rủa đầy nghiệt ngã dành cho vợ con "Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!". Nhưng kì lạ là trước trận đòn như với kẻ thù của người đàn ông, người đàn bà chỉ im lặng, nhẫn nhục chịu đựng, không chống trả cũng không chạy trốn. Phùng chưa hiểu nổi những gì đang xảy ra trước mắt, sau vài phút đứng há mồm ra mà nhìn, anh chỉ kịp vứt máy ảnh định chạy đến can thiệp, Nhưng cũng chưa kịp làm gì để giúp đỡ người đàn bà thì lại chứng kiến màn bạo lực gia đình đau lòng hơn. Thằng Phác, là con trai của lão đàn ông và người đàn bà chạy tới như một mũi tên và giật chiếc thắt lưng từ tay cha nó, vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần của cha để che chở cho người mẹ đáng thương. Lão đàn ông từ chỗ đánh vợ thì giờ chuyển sang đánh con "Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát". Có thể nhận thấy trong đoạn văn là một tấn bi kịch gia đình đầy đau đớn. Trong gia đình ấy có một người chồng độc ác, đánh vợ một cách tàn độc, nguyền rủa vợ con bằng những lời lẽ nặng nề, nghiệt ngã nhất; có một người vợ chỉ biết cam chịu trước những trận đòn vô cớ của người chồng; có một đứa con vì thương mẹ nên căm ghét và đánh lại cả bố. Nghệ sĩ Phùng là người chứng kiến câu chuyện gia đình ấy và từ đây trong anh có thêm những phát hiện, nhận thức về hiện thực đời sống. Chỉ có điều, phát hiện lần này của anh đầy bất ngờ và trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống mà trong đó, cuộc đời thực hiện lên thật trần trụi, đau đớn biết bao. Hóa ra, cuộc sống không chỉ tồn tại cái đẹp mà còn có bao nhiêu điều nghịch lí, đau lòng. Nếu như trước đó, cảnh tượng hiện ra trước mắt anh là bức tranh nghệ thuật đầy lãng mạn, đẹp tuyệt đỉnh thì màn bạo lực gia đình liên hoàn mà anh vừa chứng kiến chính là bức tranh hiện thực đời sống đầy nghiệt ngã. Tất cả những sự việc ấy diễn ra khiến cảm giác, cảm xúc trong Phùng hoàn toàn thay đổi. Không còn thấy hạnh phúc tràn ngập tâm hồn nữa mà thay vào đó là ngạc nhiên, đau đớn. Đằng sau bức tranh nghệ thuật đẹp, lãng mạn mà anh tưởng là toàn thiện, toàn mĩ kia hóa ra lại ẩn chứa một hiện thực đời sống đầy nghiệt ngã, đáng sợ. Và đó là chính là tính hai mặt của hiện thực đời sống. 3. Ý nghĩa của phát hiện Nhận xét về tình huống nhận thức trong tác phẩm Những khám phá, phát hiện của nghệ sĩ Phùng trong đoạn trích và tác phẩm đã bộc lộ một tình huống truyện vô cũng độc đáo, có tính nhận thức về đời sống và nghệ thuật. Thông điệp nhận thức được thể hiện sâu sắc khi giúp người đọc nhận ra Cuộc sống hóa ra vốn chứa đầy những nghịch lí giữa trong và ngoài, phải và trái, xa và gần.. nhiều khi trong cùng một sự vật, một sự việc, một con người cũng chứa đầy những mâu thuẫn, đối lập. Bởi vậy con người không được nhìn cuộc đời bằng cái nhìn đơn giản, một chiều mà cần có cái nhìn đa diện, nhiều chiều để khám phá ra bản chất thật của đời sống. Những khám phá, phát hiện ấy còn giúp ta nhận thức được mối quan hệ giữa hiện thực đời sống và nghệ thuật. Con thuyền nghệ thuật thì lãng mạn, lung linh huyền ảo nhưng ở rất xa, còn cuộc đời đôi khi rất nghiệt ngã lại ở rất gần. Người nghệ sĩ chân chính không chỉ phải có cái nhìn đa diện nhiều chiều để phát hiện ra bản chất thật của đời sống mà còn phải đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời. Bởi nghệ thuật chân chính là cuộc đời và vì cuộc đời. Người nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp trước hết phải là người biết vui buồn, yêu ghét trước cuộc đời. Vậy là Phùng đã nhận ra một điều mà có lẽ từ đó sẽ thay đổi cái nhìn của anh về lao động nghệ thuật và khẳng định quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh. Nghệ thuật trước hết phải gắn liền với cuộc sống, phải phản ánh chân thật cuộc sống. Nghệ thuật đích thực không thể xa rời cuộc đời, dù cuộc đời đó có đau đớn, trần trụi bao nhiêu. Vì nghệ thuật sẽ không là gì nếu nó không phục vụ cho cuộc sống và làm cho nó tốt hơn lên. Nghệ thuật chỉ có thể sống được và xanh tươi khi nó thực sự bám rễ vào cuộc đời. Nói như Biêlinxki thì văn học "trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật". Chi tiết Phùng vứt bỏ chiếc máy ảnh mà lao vào giúp đỡ người đàn bà đã khẳng định rõ thêm điều này. 3. Đánh giá Trong "Chiếc thuyền ngoài xa" nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tạo nên một tình huống truyện khá độc đáo. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện đặc sắc kết hợp với cốt truyện hấp dẫn, nghệ thuật khắc họa nhân vật sắc sảo.. Điểm nhìn linh hoạt bởi truyện được kể ở ngôi thứ nhất xưng "tôi", và người kể chuyện chứng kiến lại toàn bộ câu chuyện từ đầu đến cuối, ít có sự tham gia của các nhân vật khác. Người kể chuyện mang đặc điểm của người nghệ sĩ đang đi tìm cái đẹp theo một chủ đề Sự hài hòa trong yên tĩnh của con người và thiên nhiên khiến người đọc nhận ra nhiều điều về cuộc sống và mối quan hệ giữa cuộc sống và nghệ thuật. Bức tranh người nghệ sĩ chụp được tưởng là bức tranh tĩnh vật thì nó lại rất động với trạng thái phức tạp, nhức nhối của nó. Tình huống truyện giúp ta hiểu rõ hơn về các nhân vật, làm cho câu chuyện thêm hấp dẫn và chứa đựng giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc + Giá trị hiện thực Sau khi đất nước hòa bình thống nhất, cuộc sống đã tốt đẹp hơn rất nhiều nhưng đâu đó vẫn còn những khoảng tối hoặc tranh sáng tranh tối. Cuộc sống đói nghèo lạc hậu tăm tối là nguyên nhân dẫn tới nạn bạo hành gia đình. Cuộc chiến đấu bảo vệ quyền sống của cả dân tộc trải qua bao hy sinh gian khổ nhưng cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống của từng con người còn đầy cam go, lâu dài, cần có sự quan tâm của các cấp chính quyền và cộng đồng. + Giá trị nhân đạo Sự chia sẻ cảm thông của tác giả với những số phận đau khổ tủi nhục của những người lao động vô danh đông đảo trong xã hội. Lên án, đấu tranh với cái xấu, cái ác vẫn còn tồn tại trong từng gia đình. Phát hiện, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người lao động và hướng đến một cuộc sống tốt đẹp hơn. Bài làm "Mỗi câu văn là một lần lặn vào trang giấy Lặn vào cuộc đời Rồi lại ngoi lên." "Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ.." – Chế Lan Viên Từ đâu mà con người tìm đến văn chương? Từ đâu văn chương lại đi vào cuộc sống của con người? Văn chương kì diệu lắm! Văn chương là nghệ thuật nhưng lại chân thực vô cùng. Người đọc tìm đến nó không phải là thứ cao siêu mà đơn giản ở đó, họ tìm thấy cuộc đời. Bằng ngòi bút của mình, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã vẽ lên câu chuyện cuộc đời qua tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" mà độc giả không thể nào quên. Đặc biệt, đoạn trích dưới đây đã diễn tả phát hiện của nghệ sĩ Phùng, từ đó góp phần thể hiện quan niệm của nhà văn về mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc sống "Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng. [..] Như trong câu chuyện cổ đầy quái đản, chiếc thuyền lưới vó đã biến mất.." Nguyễn Minh Châu là nhà văn giàu tâm huyết, luôn trăn trở về một nền văn học xứng đáng với tầm vóc dân tộc và với sự kì vọng của nhân dân. Hai tập truyện ngắn "Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành" 1983 và "Bến quê" 1985 đã đưa nhà văn lên vị trí "người mở đường tinh anh và tài năng" Nguyên Ngọc của văn học nước nhà từ sau năm 1975. "Chiếc thuyền ngoài xa" thuộc kiểu truyện tư tưởng được viết vào năm 1983, in trong tập truyện "Bến quê" 1985 sau đó in lại trong tập truyện cùng tên năm 1987. Đây là tác phẩm đặc sắc cho những sáng tác sau năm 1975 của Nguyễn Minh Châu khi nhà văn chuyển sang cảm hứng thế sự - đời tư thể hiện mối quan hoài thường trực của nhà văn "những suy nghĩ da diết về chân lí nghệ thuật và đời sống". Sự thật nghiệt ngã được mô tả trong Chiếc thuyền ngoài xa đã xua tan làn khói lãng mạn phủ lên hình ảnh từ lâu trở nên quen thuộc về một ngư phủ dưới cánh buồm mờ ảo ban mai lên trên không gian xa rộng của biển cả. Đoạn văn trên thuộc phần đầu của truyện đã diễn tả phát hiện thứ hai của nghệ sĩ Phùng, từ đó góp phần thể hiện quan niệm của nhà văn về mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc sống. Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm "Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng chỉ qua một lát cắt ấy thấy được cả vòng đời thảo mộc trăm năm". Với quan niệm như vậy nên trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra tình huống truyện hết sức độc đáo. Để trong tình huống ấy, các nhân vật phải bộc lộ cách ứng xử, tính cách và phẩm chất. Truyện kể về hành trình đi tìm một bức ảnh đẹp cho bộ lịch của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Sau gần một tuần tìm kiếm, cuối cùng anh đã tìm thấy một "cảnh đắt trời cho". Nhưng ngay trong giây phút người nghệ sĩ ấy vừa "khám phá ra cái chân lí của sự hoàn thiện", vừa bắt được cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn ", thì cũng là lúc Phùng chứng kiến một cảnh bạo lực gia đình Người đàn bà bị chồng đánh đập dã man. Chỉ trong ba hôm phải chứng kiến cảnh tượng ấy đến hai lần khiến Phùng không thể chịu đựng được, bản lĩnh và phẩm chất của một người chiến sĩ – nghệ sĩ đã thôi thúc anh phải dùng vũ lực buộc lão đàn ông phải chấm dứt hành động độc ác. Cũng vì thế mà anh bị thương và được đưa về trạm y tế của tòa án huyện. Tại đây, anh đã nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài và ngộ ra nhiều điều. Trong đoạn trích, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tiếp tục thể hiện những khám phá, phát hiện về nghệ thuật và đời sống, khiến tình huống truyện được phát triển. Éo le thay khi con thuyền ngư phủ đẹp như một giấc mơ trong bức tranh nghệ thuật đẹp một cách toàn bích ấy tiến vào bờ thì bước xuống từ đó không phải là những con người đẹp và toàn thiện như cổ tích mà là hình ảnh những con người hoàn toàn đối lập Bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ là" một người đàn bà trạc ngoài bốn mươi tuổi, một thân hình quen thuộc của người đàn và vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ ". Người đàn bà hiện lên với" tấm lưng áo bạc phếch, và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng ". Đây chính là hiện thân của sự lam lũ, nghèo đói, vất vả trước cuộc sống mưa sinh. Bên cạnh sự thua thiệt về nhan sắc, cộng thêm gánh nặng trước cuộc sống mưu sinh khiến cho người đàn bà càng trở nên xấu xí hơn. Tác giả Nguyễn Minh Châu đã dùng từ ngữ cực tả như" Thô kệch, tái ngắt, bạc phếch, ướt sũng "đã diễn tả được trọn vẹn diện mạo của người đàn bà. Đối với chị, được một giấc ngủ ngon lành cũng là điều quá xa xỉ. Có thể nói, chị là hiện thân tiêu biểu của những người dân chài nhọc nhằn trước gánh nặng áo cơm. Tiếp đến là" người đàn ông tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch ". Chỉ bằng vài nét vẽ, người đàn ông được khắc họa như là hiện thân của gánh nặng cuộc đời đã kéo còng tấm lưng. Cả hai người đều là hiện thân của sự nhọc nhằn, nghèo khó của người dân hàng chài. Nếu ai đã từng đọc" Đời thừa "của Nam Cao thì sẽ thấy, Hộ là người chồng tốt, là nhà văn chân chính, nhưng cũng vì gánh nặng gia đình, gánh nặng" cơm, áo, gạo, tiền "mà đã trở thành thủ phạm của bạo lực gia đình trong những lúc say sưa để giải quyết bế tắc trong sự nghiệp và cuộc đời. Hay như trong chính" Chiếc thuyền ngoài xa ", nguyên nhân chủ yếu khiến người đàn bà hàng chài đó bị đánh là vì cứ mỗi khi khổ quá, anh chồng lại lôi chị ra đánh. Cuộc đời lam lũ nghèo khổ, nheo nhóc, sự tối tăm ngu dốt.. là một trong những nguyên nhân gây ra nạn bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em trong một số gia đình Việt Nam lâu nay? Phải chăng Nguyễn Minh Châu đã kín đáo nói về một căn nguyên đầy nước mắt mà thi hào Nguyễn Du đã viết trong" Văn chiêu hồn "hơn hai thế kỉ trước " Đau đớn thay phận đàn bà, Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu? " Rõ ràng, hoàn cảnh và điều kiện sống cũng là một nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình, đó là còn chưa kể tới những hệ lụy của nó. Một cảnh tượng diễn ra khiến cho nghệ sĩ Phùng không thể nào tin vào mắt mình và cái cảnh đẹp kia bỗng chốc biến thành một hình ảnh vô cùng thậm tệ cảnh bạo lực gia đình Bạo lực gia đình lại diễn ra ngay sau chiếc xe rà phá mìn của Mĩ trên bãi cát, và gã đàn ông đánh vợ bằng chiếc thắt lưng da của lính Ngụy. Phải chăng cái ác mà Mĩ Ngụy gieo xuống đất nước ta còn không khủng khiếp bằng cuộc chiến giữa cái thiện với cái ác trong cuộc sống hòa bình. Hay đó là hậu quả của cuộc chiến tranh vẫn hiện hữu ngay cả khi hòa bình lập lại. Tưởng rằng cuộc chiến đấu giành độc lập tự do ta đã giải quyết được trọn vẹn, mang lại niềm vui cho mọi người. Nhưng sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng còn biết bao vấn đề đặt ra Đói kém, bệnh tật, bạo lực gia đình.. Dấu tích của chiến tranh để lại không chỉ là mấy cái xe hỏng mà hơn nữa là cuộc sống đói nghèo, lạc hậu của những người như hai con người bất hạnh kia. Người đàn bà từ dáng vẻ đến hành động đều thể hiện sự bất lực, buông xuôi và cam chịu thể hiện qua cánh tay buông thõng, đôi mắt nhìn xuống dưới chân khi" đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân ". Tiếp đó, Phùng lần lượt chứng kiến những cảnh tượng vô cùng đau lòng. Lão đàn ông hàng chài ra sức đánh người vợ khốn khổ một cách tàn bạo. Với môt vẻ" hùng hổ, mặt đỏ gay ", lão đàn ông dùng chiếc thắt lưng lính ngụy ngày xưa để đánh vợ" chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà ". Trong cơn giận dữ như lửa cháy, lão vừa nghiến răng ken két vừa dùng hết sức lực để dùng chiếc thắt lưng quất tới tấp vào người đàn bà. Không chỉ đánh vợ tàn độc mà lão đàn ông còn ra sức chửi rủa. Mỗi nhát quất xuống là một câu nguyền rủa đầy nghiệt ngã dành cho vợ con " Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ! ". Cách đánh thật man rợ. Cường độ và tốc độ đánh đạt đến" đỉnh điểm "của sự giận dữ, căm thù và đau đớn. Diễn tả điều này," Nguyễn Minh Châu đã trút bỏ hết trang sức của ngôn từ "Bùi Minh Đức để thay vào đó là những từ ngữ cực tả" như lửa cháy" "quật tới tấp" "thở hồng hộc" "nghiên răng ken két" mới diễn tả được đày đủ, chính xác cảnh tượng kinh hoàng này. Chồng đánh vợ bằng tất cả sự căm thù, tức giận, bằng tất cả sức mạnh của cơ bắp và tinh thần, đánh thậm tệ, dã man như đánh kẻ thù số một. Thật thậm tệ, dã man và đớn đau biết chừng nào! Chứng kiến cảnh tượng này mấy ai đã cầm được lòng mình. Quả thực như Tô Hoài viết "viết văn là quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không hề tầm thường chút nào". Sự thật mà nhà văn Nguyễn Minh Châu phản ánh thật chân thực, chính xác được viết ra từ "những điều trông thấy mà đau đớn lòng" của một nhà văn có "mối quan hoài thường trực về số phận con người" Nguyễn Văn Long. Nỗi đau xót của người đàn bà hàng chài làm cho trái tim Phùng rớm máu. Mỗi nhát quất vào lưng người đàn bà cũng làm tan nát trái tim độc giả. Sức mạnh của ngôn từ đâu phải đến từ lời trần ngôn sáo ngữ mà nó nhiều khi được chiết suốt từ những trái tim đang đau đáu trước những nỗi đau của cuộc đời. Với cảnh tượng bị bạo hành dã man ấy, người đàn bà mang nỗi đau về thể xác. Mặc dù vậy người đàn bà không chống trả, không van xin, không chạy trốn. Khi Thúy Kiều bị Tú Bà tra tấn đã phải thốt lên trong đau đớn "Thịt da ai cũng là người Lòng nào hồng rụng thắm rời chẳng đau" Người đàn bà cũng vậy, mụ đâu phải là mình đồng da sắt, là con người bình thường ai mà không đau được chứ! Thế mà mụ lặng câm chấp nhận đòn roi của chồng như người đi biển chấp nhận sóng gió vì con. Trước cảnh tượng đó, Phùng đã "vứt chiếc mát ảnh xuống đấ chạy nhào tới. Bỗng một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác.. thằng bé cứ chạy một mạch, sự giận dữ, căng thẳng làm nó chạy qua không nhìn thấy tôi". Phản ứng của thằng Phác là lao vào "giằng được chiếc chắt lưng, liền dướn thẳng người, vung khóa quật" vào bố nó. Như vậy thằng bé cũng đã dùng hết sức có thể cùng với sự giận dữ, căm thù, căm giận để đánh bố nó. Nó đánh lão đàn ông như đánh kẻ thù số một. Đau đớn biết mấy cho một tâm hồn ngây thơ, một trái tim non nớt. Vì tình thương mẹ mà Phác đã đánh bố, đã phạm phải tội lớn nhất của đời người, tội bất hiếu khó tha thứ. Phác đã vi phạm đạo đức nghiêm trọng của con người. Có thể nói, việc bảo vệ mẹ khỏi đòn roi là một động cơ thì tốt đẹp, trong sáng đáng trân trọng nhưng Phác lại có những hành động sai lầm. Thằng Phác đã bị rơi vào tình trạng thương xót biết bao. Đáng thương hay đáng trách đây? Người đàn ông vũ phu "định giằng lại chiếc thắt lưng những chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát". Người xưa nói "hổ dữ không ăn thịt con". Đây chưa đến nỗi là hành động của hổ dữ, nhưng cách đánh của lão đàn ông cũng thật đáng trách biết bao. Lão đã dang tay cho thằng bé hai cái tát khiến nó ngã dúi xuống cát. Quả thực, những điều diễn ra là sự tận cùng bạo lực gia đình. Mối quan hệ gia đình, quan hệ huyết thống vốn là một mối quan hệ rất thiêng liêng, cao đẹp nhưng giờ đây đã bị phá vỡ bởi những hành động bạo lực chồng chất, dã man. Giờ đây thay thế vào cho mối quan hệ thiêng liêng kia là ngọn lửa của lòng hận thù. Thật đau đớn, chua xót biết chừng nào. Con người thật tội nghiệp, nhỏ bé trước cuộc sống mưu sinh, trước cảnh sống nghèo đói. Văn học trước Cách mạng tháng Tám - 1945 đã miêu tả vấn đề cơm áo gạo tiền đã khiến những người trí thức bị "ghì sát đất," để sống đời thừa như những thanh sắt bị hoen ghỉ ra giữa cuộc đời, để họ cứ chết dần, chết mòn, chết khi đang còn sống. Đó là thực trạng đau xót được nhà văn Nam Cao phản ánh chân thực trong những trang viết của ông về đề tài người trí thức. Cũng vì cái đói, Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao phải ăn bả chó để bảo toàn mảnh đất thiêng cho người con trai. Đó là những con người sống trong chế độ cũ, xã hội nửa thực dân phong kiến phi nhân đạo. Đau đớn thay, nỗi đau về cơm áo gạo tiền còn kéo dài sang tận chế độ mới, khi hòa bình đã lập lại, đất nước đã thống nhất nhưng cái đói vẫn là mối đe dọa đến cuộc đời của nhiều người dân trong những năm 80 của thế kỷ XX. Cái nghèo đói đang mang đến nguy cơ phá hủy những mối quan hệ vốn thiêng liêng và tưởng chừng rất bền chặt. Đặt ra vấn đề này, Nguyễn Minh Châu đã làm thay đổi bao mắt nhìn, óc nghĩ của mọi người về cuộc đời, về thân phận của con người bằng tất cả tấm lòng nhân đạo sâu sắc, thấm thía và cảm động. Như vậy, chiếc thuyền vào gần bờ đã có kết quả hoàn toàn trái ngược với vẻ đẹp của sự toàn bích, toàn thiện; giờ đây là sự hiện thân của cái xấu, cái ác, cái phi đạo đức. Hình ảnh chiếc thuyền ở gần là hiện thân của cuộc sống lam lũ, nhọc nhằn với đói nghèo và bạo lực. Tấm ảnh về chiếc thuyền thì rất đẹp, nhưng cuộc sống đích thực của gia đình dân chài trên chiếc thuyền ấy chẳng có gì là đẹp. Sự nghịch lí ấy đặt ra vấn đề đối với người nghệ sĩ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. "Nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối" Nam Cao. Những giọt nước mắt của người đàn bà hàng chài nhỏ xuống lấp đầy những nốt dỗ chằng chịt kia. Một cảnh tượng nghiệt ngã đối lập với cái cảnh đẹp như ngư phủ của con thuyền. Ở phát hiện thứ hai của Phùng, mặc dù người đàn bà hàng chài hiện lên với vẻ bề ngoài xấu xí, thô kệch, nhưng ẩn sâu bên trong chị vẫn ngời sáng vẻ đẹp phẩm chất khiến người đọc ngưỡng mộ Trước hết, chị là một người phụ nữ đầy cam chịu, vị tha, hiểu chồng. Mặc dù bị lão đàn ông đánh đập dã man nhưng chị "không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn". Tại sao vậy? Bởi lẽ, chị hiểu rõ nguyên nhân mình bị đánh. Chị biết rõ hành động của lão đàn ông chỉ là sự trút giận, sự bất lực. Thật ra bản chất của lão không xấu, nhưng do hoàn cảnh nghèo đói, gánh nặng mưu sinh "cơm áo gạo tiền" đè nặng lên đôi vai nên người đàn ông mới thành ra như thế. Không những vậy, hành động chịu trận của người đàn bà còn cho thấy chị là một người giàu lòng tự trọng, thương con. Khi chứng kiến con đánh bố, bố đánh con, lúc đó người đàn bà mới "Đau đớn, vô cùng xấu hổ và nhục nhã". Nỗi đau đớn không phải đến từ đòn roi của chồng. Mà đó là nỗi đau tinh thần của một bà mẹ giàu lòng tự trọng . Trong nỗi đau đớn tột cùng ấy, lúc này người đàn bà mới khóc. Như vậy, dù mạnh mẽ đến đâu chị cũng là một con người, khi lòng tự trọng bị tổn thương, tình mẫu tử, phụ tử bị cào cấu bàn đôi bàn tay ngây thơ của thằng Phác, chị đã không cầm được giọt nước mắt. Trong nỗi đau đó, chị đã có hành động rất lạ "vái con lia lịa" như một lời khẩn cầu tha thiết, đau đớn của một người mẹ giàu lòng tự trọng. Đối với chị, chứng kiến con mình đã phạm tội rất lớn mà lực bất tòng tâm, không ngăn cản được một sự thật chua chát thật đau đớn biết chừng nào. Nỗi lo sợ nhất của chị đã thành hiện thực. Một hiện thực chua xót, đớn đau như đứt từng khúc ruột. Càng có lòng tự trọng bao nhiêu, chị lại càng đau xót, xấu hổ bấy nhiêu vì đã để con chứng kiến cảnh mình bị hành hạ. Điều này chị thấu hiểu rằng nó sẽ tạo nên những vết sẹo trong trái tim con, sẽ làm con mình tổn thương, làm trái tim non nớt của con bị cứa rớm máu vì cảnh bạo lực gia đình. Chị xấu hổ, nhục nhã vì thấy rằng mình là mẹ mà không thể nuôi dạy con một đàng hoàng tử tế. Qua phát hiện này, ta cũng thấy được tâm trạng và thái độ của nghệ sĩ Phùng. Anh như cay đắng nhận thấy những cái ngang trái, bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu của cái máy ảnh mà anh dày công sáng tạo nghệ thuật bổng hiện hình một sự thật cuộc sống sót xa. Phùng kinh ngạc đứng há hốc mồm, vứt máy ảnh định nhảy vào can thiệp. Chứng kiến cảnh bạo lực diễn ra lần thứ hai, Phùng đã yêu cầu lão đàn ông chấm dứt hành động vũ phu nhưng không được. Anh đã dùng nắm đấm của một người lính đã từng cầm súng chiến đấu. Thiên chức của người nghệ sĩ không chỉ khám phá, rung động trước cái đẹp mà phải đứng lên chống lại cái ác, cái xấu xa. Khát vọng giải phóng người đàn bà khỏi đòn roi luôn tồn tại trong lòng Phùng. Tuy nhiên, Phùng đã không thể giải phóng người đàn bà khỏi đòn roi mà anh còn bị thương. Điều đáng lưu ý là hành động của Phùng diễn ra ở nơi chiến trường xưa, nơi anh từng cầm súng chiến đấu giải phóng dân làng khỏi ách đô hộ của đế quốc Mĩ. Nhưng giờ đây, anh lại thất bại trong việc giải phóng người đàn bà khỏi đòn roi bằng vũ lực. Nắm đấm không phải cách tốt nhất để giải quyết những vấn đề mâu thuẫn, xung đột gia đinh. Hơn nữa, sự thất bại của Phùng bởi anh vẫn chưa tìm hiểu rõ nguồn cơn của vẫn đề, gốc rễ của bạo lực là từ đâu. Chính việc chứng kiến cảnh bạo lực gia đình đã làm thay đổi quan điểm, cách nhìn cuộc đời của Phùng về nghệ thuật và cuộc đời. Đây cũng là một tình huống mới để câu chuyện phát triển sang một hướng khác. Với hai phát hiện ấy Phùng chợt nhận ra rằng cuộc đời không đơn giản một chiều mà chứa nhiều nghịch lý ngang trái, mâu thuẫn. Cuộc sống luôn tồn tại những mặt đối lập, đẹp và xấu thiện và ác. Ở đây nhà văn khẳng định, cùng một chiếc thuyền nhưng ở hai thời điểm, hai khoảng cách lại cho kết quả hoàn toàn trái ngược nhau. Cuộc đời luôn chứa đựng nghịch lí oái oăm. Cuộc sống luôn tồn tại những mặt đối lập, những mâu thuẫn giữa đẹp –xấu, ác – thiện. Đừng nhầm lẫn giữa hiện tượng và bản chất, giữa hình thức và nội dung không phải bao giờ cũng trùng khít nhau. Đừng vội đánh giá con người, sự vật qua hình thức bên ngoài. Nguyễn Minh Châu đã lên tiếng dõng dạc cần phải bước vào cuộc chiến chống lại cái ác, bạo tàn, xấu xa. Thành công đầu tiên của tác phẩm phải kể đến việc tác giả đã tạo ra một tình huống nhận thức mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về cuộc sống. Sự chứng kiến cảnh người đàn ông đánh vợ là một sự kiện tạo ra bước ngoặt nhận thức và tình cảm, cảm xúc của nhân vật Phùng. Ngôn ngữ kể chuyện rất sinh động, hấp dẫn, tác giả đã chọn ngôi kể thứ nhất, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, giúp cho điểm nhìn trần thuật sắc sảo, lời kể trở nên khách quan, chân thực và giàu tính thuyết phục. Ngôn ngữ nhân vật rất phù hợp với đặc điểm tính cách của từng nhân vật. Xây dựng đối thoại sinh động hấp dẫn. Việc sử dụng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo như thế, tác giả đã khắc sâu chủ đề- tư tưởng cho tác phẩm. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật rất tinh tế, sắc sảo tạo nên một tác phẩm rất đặc sắc giàu sức ám ảnh. Mọi dòng sông đều đổ về biển rộng, cũng như mọi khám phá sáng tạo đều có đích hướng về, những vấn đề thuộc về con người, nhân sinh, nhân bản. Bởi lẽ, con người là một trung tâm của văn học nghệ thuật. Văn học có thể viết về mọi vấn đề của đời sống, mọi hình thức sáng tạo, nhưng đều hướng tới để đặt ra và cắt nghĩa những vấn đề của nhân sinh. Văn học chân chính phải là thứ văn chương vị đời, nhà văn chân chính phải là nhà văn vì con ngươi, phẩm mới đạt tới tầm nhân bản. Muốn vậy "Nhà văn chân chính là phải nhân đạo từ trong cốt tủy" Sê – Khốp. Chính vì thế, văn học phải hướng tới cuộc sống, phải khơi gợi được những tình cảm nhân văn cao đẹp, đánh thức được lòng trắc ẩn đang ngủ sâu trong trái tim mỗi người đọc. Văn chương phải giúp ta người hơn. Từ những điều trên, ta có thể khẳng định nhà văn Nguyễn Minh Châu đã hoàn thành sứ mệnh của một nhà văn chân chính khi tạo ra những trang viết chan chứa giá trị nhân đạo. Qua đoạn trích, người đọc thấy được quan niệm về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống mà Nguyễn Minh Châu gửi gắm. Đây không phải vấn đề mới mẻ mà nhà văn Nguyễn Minh Châu đã đặt ra. Bởi trước đó rất nhiều nhà thơ, nhà văn trên thế giới đã phát biểu điều này. Tuy nhiên, Nguyễn Minh Châu vẫn có cách đặt vấn đề rất riêng, rất sáng tạo trong một truyện ngắn luận đề với những phát hiện và nhận thức của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Nghệ thuật và đời sống đang ở một khoảng cách quá xa chiếc thuyền ngoài xa tượng trưng cho nghệ thuật; chiếc thuyền vào bờ tượng trưng cho cuộc sống. Đây là khoảng cách cần được san lấp để tác phẩm nghệ thuật đi sâu phản ánh cuộc sống, bám rễ sâu và trong cuộc sống còn nhiều khó khăn. Vấn đề này Nguyễn Minh Châu đã ra khi nền văn học đang đi theo lối mòn, thiếu cách nhìn mới, để "đào sâu, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có". Nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống và vì cuộc sống. Người nghệ sĩ cần phải có cái nhìn đa chiều đa diện. Quan điểm nghệ thuật được nhà văn Nguyễn Minh Châu thể hiện rất sâu sắc và kín đáo, nó như phần chìm của tảng băng trôi mà cần sự suy nghĩ, tìm tòi của người đọc mới có thể khám phá. Có thể nói, đây là cách viết rất cao tay, sáng tạo, đã tạo nên những rung cảm thẩm mĩ sâu xa. Cách nhìn đời, nhìn người chưa bao giờ là chuyện cũ, nhất là đối với người nghệ sĩ. Mỗi một thời đại thì lại cần có cái nhìn phù hợp. Đặt ra những vấn đề này Nguyễn Minh Châu đã mở ra một con đường đi mới mà người nghệ sĩ cần đi theo. "Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo". Những tác phẩm đạt đến chuẩn mực của cái hay cái đẹp sẽ "vượt qua mọi sự bang hoại của thời gian" để sống mãi trong lòng bạn đọc. Cũng như dù thời gian có chảy trôi nhưng giá trị tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" của nhà văn Nguyễn Minh Châu vẫn nguyên vẹn và tỏa sáng. "Thời gian qua kẽ tay Làm khô những chiếc lá * * *Riêng những câu thơ còn xanh Riêng những bài hát còn xanh" Thời gian – Văn Cao ctnx nguyễn minh châu văn 12 CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA-Nguyễn Minh Châu-A. MỞ BÀI CHUNGLã Nguyên đã nói về yêu cầu của văn chương nghệ thuật và thiên chức của ngườinghệ sĩ “Nhà văn chân chính có sứ mệnh khơi nguồn cho dòng sông văn học đổ ra đạidương nhân bản mênh mông”. Nguyễn Minh Châu đã ý thức được sâu sắc thiên chức ấycủa người cầm bút trong công cuộc đổi mới văn học nên trở thành người mở đường tinhanh và tài hoa của văn học Việt Nam sau năm 1975. Đứng trước sự thay đổi của thời đại,nhận thức được nhu cầu đổi mới văn học, Nguyễn Minh Châu đã người tiên phong gieonhững hạt giống đầu tiên trên con đường đổi mới. Nếu như trong giai đoạn trước NguyễnMinh Châu sáng tác theo cảm hứng sử thi đậm nét, sau năm 1975 ông đã chuyển sang cảmhứng thế sự với những vấn đề về đạo đức và triết lý nhân sinh. Tác phẩm của NguyễnMinh Châu có sức hấp dẫn riêng biệt, nhà văn khẳng định bản sắc cá nhân nghệ sĩ bằng nétphong cách kết hợp hài hòa chất triết lí cuộc đời với chất trữ tình lãng mạn, hình tượngnhân vật được soi thấu trong quan hệ đa chiều, phức tạp và đề cao, tôn vinh những giá trịcuộc sống. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn tiêu biểu cho sáng tác củaNguyễn Minh Châu sau năm 1975. Đây là một tác phẩm hay đậm tính nhân văn, thể hiệnmột lối tư duy mới mẻ của nhà văn về cái đẹp, nghệ thuật và số phận con người trong cuộcmưu sinh nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. B. PHÂN TÍCH ĐOẠN VĂNĐoạn số 1Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâuvào phía trong có một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ, chiếc xe sơn màu vàng tươivà to lớn gấp đôi một chiếc xe tăng. Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếcxe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếcthuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưngrồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống đàn ông lập tức trở lên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếcthắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết,chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quậttới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến kenkét, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn “Mày chếtđi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”.Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, khôngchống trả, cũng không tìm cách trốn cả mọi việc xẩy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứđứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuốngđất chạy nhào một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác –thằng bé trên rừng xuống vừa nằm ngủ với tôi từ lúc nửa đêm. Thằng bé cứ chạy một1 Hai vợ chồng Cao Tài Năng - Vũ Thị Mừng tại phiên tòa sơ thẩmChiếc xe bị bỏ quên Tháng 6-2021, trên một diễn đàn lớn về ô tô xuất hiện bài đăng gây chú ý “Cụ chủ xe hoặc người thân của chủ xe CX5 không biết vì lý do gì mà đỗ ở khu vực phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, Hà Nội gần 1 năm trời rồi, không thấy di chuyển”. Cùng với bài viết, người này đính kèm hình ảnh chiếc xe ô tô Mazda CX5 biển số tỉnh Hải Dương đã để nhiều tháng, bụi bặm bám đầy. Thông tin về chiếc xe được Công an tỉnh Hải Dương nhanh chóng xác minh, làm rõ. Theo đó, chủ xe được xác định là anh Dương Công Cường SN 1974, trú tại phố Cuối, thị trấn Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Đáng chú ý, chiếc xe này biến mất cùng với người chủ của nó trước đó gần 1 năm tháng 8-2020. Thời điểm anh Cường mất liên lạc, gia đình anh đã trình báo cơ quan công khi đưa chiếc xe CX5 về tỉnh Hải Dương để điều tra, Công an tỉnh Hải Dương đề nghị Viện Khoa học hình sự Bộ Công an hỗ trợ truy tìm các dấu vết liên quan. Cán bộ, chiến sĩ Phòng Khám nghiệm hiện trường Viện Khoa học hình sự đã lập tức có mặt tại Hải Dương để phối hợp cùng lực lượng Kỹ thuật hình sự của Công an tỉnh rà soát lại dấu vết bất thường cả bên trong lẫn bên ngoài xe ô tô. Quá trình khám nghiệm, lực lượng Kỹ thuật hình sự xác định, chiếc xe đã bị tác động, tẩy xóa dấu vết rất tinh vi, camera hành trình, hộp đen, thiết bị điện tử… trên xe đều biến mất. Điều này chứng tỏ kẻ xóa dấu vết là người am hiểu xe cộ, có học nhà 126 Nguyễn Thượng Mẫn, TP Hải Dương nơi xảy ra vụ ánNhững dấu vết đầu tiênXác minh nhân thân anh Dương Công Cường, cơ quan công an thu thập được thông tin anh Cường là người có điều kiện về kinh tế. Anh có cho một số người vay tiền, trong đó có vợ chồng Cao Tài Năng SN 1981 và Vũ Thị Mừng SN 1983 nhà ở phường Bình Hàn, TP Hải Dương với số tiền lên đến gần 3 tỷ đồng. Buổi sáng trước khi ra khỏi nhà, anh Cường có nói với bố đẻ là sẽ đến nhà vợ chồng Cao Tài Năng để đòi nốt số nợ còn đình anh Cường cũng cho biết, sáng 28-11-2020 anh Cường đi xe đạp điện sang nhà em ruột là chị Dương Thị Huệ ở thị trấn Gia Lộc để lấy chiếc ô tô CX5 nói là đi đòi nợ. Khoảng 16h cùng ngày, con gái anh Cường nhận được tin nhắn của bố với nội dung “Tối bố về muộn, không phải chờ, công việc gấp, bố phải đi Nghệ An luôn. Con ở nhà ngoan và học bài nhé”. Sau tin nhắn này, điện thoại của anh Cường không liên lạc được. Con gái anh Cường linh cảm có điều không bình thường vì trước mỗi chuyến đi xa, anh luôn trực tiếp gọi điện thoại chứ không bao giờ nhắn dữ liệu hình ảnh từ camera, cơ quan công an phát hiện khoảng 9h ngày 28-11-2020 chiếc xe CX5 của anh Cường có xuất hiện tại ngõ 200 Điện Biên Phủ, phường Bình Hàn, TP Hải Dương, gần nhà Cao Tài Năng. Chiếc xe đi vào ngõ và khoảng 5 phút sau đi ra nhưng không nhìn rõ người trong ô tô. Cơ quan điều tra nhiều lần ghi lời khai của Cao Tài Năng cùng những người thân của anh ta để xác minh về việc Năng sử dụng thời gian trong ngày 28-11-2020, nhưng không có kết quả. Tuy nhiên, từ những thông tin, chứng cứ có được, cơ quan điều tra nghi vấn Cao Tài Năng chính là người trực tiếp mang xe ô tô của anh Cường lên khu đô thị Kim Văn - Kim Lũ, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, Hà Nội và tập trung truy tìm chứng cứ xung biết, vợ chồng Cao Tài Năng và Vũ Thị Mừng đều là người có học thức, Năng tốt nghiệp Đại học Bách Khoa còn Mừng đang là giảng viên một trường cao đẳng. Vợ chồng Năng - Mừng sở hữu nhiều cửa hàng thuốc và kinh doanh vật liệu xây dựng. Hiệu thuốc Việt Đức có địa chỉ tại 126 Nguyễn Thượng Mẫn, TP Hải Dương cũng chính là địa chỉ cuối cùng ghi nhận sự xuất hiện của anh Cường theo trích xuất camera. Hiệu thuốc này đã được cơ quan điều tra khám nghiệm chi tiết và phát hiện bức tường của căn nhà mới được quét lại nhiều lớp sơn. Tiếp tục sử dụng những thiết bị hiện đại soi chiếu, tổ khám nghiệm tìm thêm được nhiều dấu vết, củng cố nghi vấn tẩy xóa hiện trường nhằm che giấu hành vi. Thời điểm này cũng đã đủ tài liệu khẳng định Cao Tài Năng đã 2 lần đi lên Hà Nội và đi qua khu đô thị Kim Văn - Kim Lũ, phường Đại Kim, nơi phát hiện chiếc xe trường nơi thủ phạm chôn nạn nhânTận cùng tội ácTriệu tập Cao Tài Năng lên làm việc tại cơ quan công an, ban đầu người đàn ông này quanh co chối tội, khẳng định không liên quan đến việc anh Cường mất tích. Tuy nhiên, khi nghe tin cơ quan công an tìm thấy chiếc ô tô của anh Cường thì tâm lý của Năng trở nên bất thường. Trước sự đấu tranh của điều tra viên cùng những dấu vết thu được từ hiệu thuốc Việt Đức và chiếc ô tô CX5, cuối cùng Cao Toàn Năng phải thừa nhận bản thân đã gây ra vụ án mạng kinh việc xuất phát từ việc vợ chồng Năng - Mừng nợ anh Cường số tiền lớn để làm ăn. Đến hạn, anh Cường nhiều lần hối thúc đòi tiền khiến vợ chồng Năng cảm thấy áp lực. Do đó, Năng đã lên kế hoạch giết anh Cường để xóa món nợ. Ngày 28-11-2020, Năng hẹn anh Cường tới hiệu thuốc của mình ở số 126 Nguyễn Thượng Mẫn, TP Hải Dương, nói là sẽ thanh toán đầy đủ nợ nần. 9h cùng ngày, anh Cường đến hiệu thuốc và bị Năng dùng gậy đánh tử vong tại chỗ. Kế đó, Năng gọi điện cho vợ thông báo mình đã giết anh Cường và 2 vợ chồng bàn nhau mang thi thể của anh Cường đi chôn ở sông Thái Bình. Để che giấu việc anh Cường mất tích, Năng đã dùng điện thoại của anh Cường nhắn tin cho con gái anh, bịa ra việc đi Nghệ An không về. Năng còn yêu cầu vợ phải giúp chôn giấu thi thể anh Cường nếu không sẽ tự tử, Mừng đồng ý và việc này được tiến hành trong việc chôn anh Cường xong xuôi, Năng đưa ô tô của nạn nhân lên khu đô thị Kim Văn - Kim Lũ tại Hà Nội rồi đi taxi về. Thời gian sau, lo sợ bị phát hiện nên Năng bàn với vợ đào thi thể nạn nhân lên đốt phi tang thì mới yên tâm. Tối 8-2-2021, sau hơn 2 tháng gây tội ác, vợ chồng Năng - Mừng đã đào thi thể anh Cường lên và dùng xăng thiêu kết của những kẻ mất nhân tínhSau khi hoàn tất việc khám nghiệm chiếc xe của nạn nhân, Viện Khoa học hình sự tiếp tục tham gia khám nghiệm hiện trường tại 3 địa điểm các đối tượng thực hiện hành vi phạm tội gồm Hiệu thuốc ở phố Nguyễn Thượng Mẫn nơi nạn nhân bị sát hại; hố đất ven bờ sông nơi chôn xác nạn nhân; khu vực ven sông nơi đốt xác phi tang. Các giám định viên đã làm việc tỉ mỉ, sàng lọc từng vật chứng nhỏ nhất và tìm được mẫu vật quan tranh với Cao Tài Năng, hắn đã khai thêm là sau khi đốt thi thể nạn nhân, có một số mảnh xương không thể cháy hết nên đã mang đến vỉa hè khu đô thị Tuệ Tĩnh TP Hải Dương tìm cách phi tang... Khám nghiệm tại đây, cơ quan công an phát hiện thêm những mẫu xương còn sót lại. Thực hiện giám định ADN cho kết quả các cấu trúc xương này có quan hệ huyết thống với bố mẹ của nạn nhân. Đây là chứng cứ quan trọng để chứng minh hành vi phạm tội của Cao Tài Năng, Vũ Thị 18-11-2021, TAND tỉnh Hải Dương mở phiên xét xử sơ thẩm 2 bị cáo Cao Tài Năng và Vũ Thị Mừng. Hội đồng xét xử nhận định, hành vi của Cao Tài Năng là đặc biệt nghiêm trọng, tính toán tinh vi, động cơ đê hèn, tước đoạt tính mạng của bị hại, xâm phạm tài sản, thi thể, hài cốt của bị hại gây nên mất mát lớn cho gia đình nạn nhân nên đã tuyên bản án cao nhất dành cho các tội danh Giết người; cướp tài sản; xâm phạm thi thể, hài cốt. Bị cáo Vũ Thị Mừng phạm tội Che giấu tội phạm; xâm hại thi thể, hài cốt. Hình phạt chung cho 2 tội là 6 năm 6 tháng tù. Tại phiên phúc thẩm sau đó, Vũ Thị Mừng bị TAND tỉnh Hải Dương tăng mức hình phạt lên 7 năm 6 tháng tù. Để học tốt Ngữ văn lớp 12Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh ChâuTài liệu lớp 12 Chiếc thuyền ngoài xa đã được tổng hợp đầy đủ những bài viết liên quan tới nội dung của truyện, qua đó sẽ giúp các bạn học sinh tham khảo để học tốt Ngữ văn 12, tài liệu gồm phân tích, tóm tắt, soạn bài lớp 12... chắc chắn các bạn học sinh sẽ học tập một cách dễ dàng hơn. mời các bạn học sinh và thầy cô tham thuyền ngoài xaTrưởng phòng tôi là người sâu sắc, lại cũng lắm sáng kiến đến cái mức có khi bọn chúng tôi trong cơ quan phát mệt vì đây chừng dăm tháng, để chuẩn bị cho tấm lịch năm sau, anh tỏ ý không bằng lòng với cách làm ăn từ trước tới giờ - Sang năm chúng ta sẽ đem đến cho mỗi gia đình một bộ sưu tập chuyên đề về thuyền và biển - anh nói quả quyết - Thôi, bỏ cái lối mỗi thứ một tí đi. Phải có một bộ sưu tập chuyên đề. 12 tháng là 12 bức ảnh nghệ thuật về thuyền và biển. Không có người. Hoàn toàn thế giới tĩnh tôi xách máy lên đường, suy nghĩ, chọn cảnh, bấm máy suốt năm tháng. Và tất cả những gì thu được bằng ánh sáng đen trắng trên giấy ảnh đang được bày ra la liệt trên hai chiếc bàn ghép lại, và quả tình lúc đó tôi đã lấy làm bằng lòng lắm, đoán chắc không còn phải xách máy đi chụp bổ sung như mọi năm khói thuốc lá cuộn phun ra mù mịt trước cặp mắt đầy tinh khôn của trưởng phòng đang nheo lại sau mắt kính lão. Đột nhiên trưởng phòng quay sang phía tôi hỏi- Bây giờ đã là tháng mấy nhỉ?- Tháng bảy. - Tôi đáp với một vẻ dè Tháng này ở biển vẫn còn sương chứ?- Chỉ có bão táp với biển động. Muốn lấy sương thì phải nghĩ đến từ tháng ba Này anh Phùng - trưởng phòng dường như đã nhìn thấy rõ mọi ý nghĩ ngần ngại của tôi, cho nên anh vừa nói vừa nhăn nhó cái mặt lộ vẻ đau khổ - tôi cho anh một tháng, một tháng là đủ chứ gì?... Anh giúp tôi thêm một cảnh buổi sáng có sương Trời ơi - tôi nhặt một bức ảnh ngay trong tầm tay - với hàng trăm bức ảnh đẹp, chụp công phu thế này mà anh... - Đẹp thì đẹp thực - anh cướp lời tôi - Và nhất là lại có hồn nữa. Đúng là những bức ảnh nghệ thuật. Nói thực tình năm nay các anh đi về, khác với những năm khác, tấm nào ít nhiều tôi cũng thích. Nhưng không thể chọn đủ cho mười hai tháng, vẫn đang còn thiếu một đời cái gì cũng thế, con người bản tính vốn lười biếng, đôi khi mình hãy cứ để cho mình rơi vào hoàn cảnh bị ép buộc phải làm, không khéo lại làm được một cái ngày sau tôi đã có mặt ở một vùng biển cách Hà Nội ngoài sáu trăm cây số. Tôi vác máy tới một dải bờ cát nằm "phục kích" thiên nhiên ở cái khoảng giao điểm ngày vừa rạng, đêm chưa tắt hẳn, bấy giờ cũng là lúc những chiếc thuyền đánh cá bằng vó bè hiện ra trong khoảng mờ tỏ của bình ra đi chuyến này tôi có ý muốn trở về thăm một vùng chiến trường cũ ở đấy tôi có một thằng bạn vừa là đồng hương, vừa là đồng đội đã từng mười năm ở với nhau trên rừng A So, trước đây là một trung đội phó bộ binh nổi tiếng hay đùa tếu và bây giờ, lạy trời, ở ngay cái vùng biển ấy hắn ta đang làm một thứ công tác... nghiêm túc đến mức chẳng ai có thể tưởng tượng, chính hắn lại có thể làm nổi, mà trong thực tế hắn ta đã làm hai ba năm nay chứ không ít. Đời chúng tôi, cái đám lính của một thời chống Mỹ, từ sau bảy nhăm thật chẳng ít chuyện trớ trêu và bất ra ở đấy chưa phải là biển mà mới chỉ là một vùng phá ăn sâu vào đất liền, chạy quanh quất như chơi trò trốn tìm giữa các thôn, ổ, chợ búa trong một phạm vi hàng mấy chục cây số. Chẳng phải nói, cái vùng nước mà tôi vừa mới vác máy ảnh đến để chụp bổ sung cho bộ sưu tập thật là thơ mộng, và nhất là dường như trong suốt dải bờ biển của khắp cả nước, chỉ ở đây vào giữa tháng bảy là còn sương mù. Nơi đây, nếu bỏ ra ngoài tầm mắt những bãi xe tăng vứt lại hồi "tháng ba bẩy nhăm" bây giờ sau gần mười năm, đã bị hơi nước mặn gặm mòn và làm cho sét gỉ, vùng phá nước có một cái gì đấy thật là phẳng lặng và tươi mát như da thịt của mùa thu đang ấp vào tâm hồn anh. Tôi trở nên ngây ngất vào mỗi buổi sáng, bầu trời không xanh biếc, cao thăm thẳm mà đượm một sắc giữa xanh và xám, bầu trời như hạ thấp xuống và như ngưng đọng lại; giữa trời và nước ấy chỉ có một chiếc thuyền của một gia đình làm nghề vó bè đang tỏa khói bếp giữa phá - chiếc thuyền đứng im như làm bằng các-tông dán vào cảnh vật êm ngày đầu, suýt nữa tôi đã quyết định đưa vào tờ lịch tháng bảy khung cảnh người ta đẩy một chiếc thuyền xuống nước. Đó là một chiếc thuyền mới đóng xong vẫn còn thơm mùi gỗ lẫn mùi dầu rái. Tôi đã chọn được một thằng bé khoảng lên năm có đầy đủ ngoại hình con trai một nhà hàng chài, lại có cặp mắt thật đen gợi cho tôi nghĩ đến con mắt người ta vẽ trên đầu mũi thuyền, thằng bé đánh trần, lội ra đứng giữa những lượn sóng bạc đầu giang tay vứt một nắm phoi bào ra thật xa. Trong khi đó, ở trên bờ, bố mẹ nó và những người lớn đứng xếp hàng dọc ghé vai vào hai bên mạn chiếc thuyền mới. Tôi chỉ cần chụp đặc tả những chiếc vai trần của ngư phủ cùng với một hàng bàn chân to bè của họ dậm lún vào tôi vội thôi ngay cảnh đẩy thuyền đầy không khí vui nhộn hơi thô lỗ và thật hùng tráng. Thất bại thấy trước là tôi đã không làm sao thu được vào ống kính khoảnh khắc chiếc thuyền đập mình xuống nước làm vỡ tung toé từng đám bọt sóng trắng cũng quyết định thôi không lấy cảnh sương và cát như trưởng phòng ở nhà đã gợi ý, mặc dầu có những đêm thật lý thú, tôi ra ngủ ngay giữa bãi cát ven bờ phá, theo lời rủ rê của một thằng bé mặt mũi xấu xí nhưng có một trí nhớ khác thường, quần áo dính đầy nhựa cây, nó là đứa cháu ngoại của một ông lão làm nghề sơn tràng ở tận trên miền rừng A So, hai ông cháu lái một chiếc xe Reo của gia đình chở gỗ về bán cho xưởng đóng thuyền. Trong những đêm như thế, thằng nhóc tận trên rừng xuống và tôi như hai nhà hiền triết nằm kê đầu trên mười ngón tay đan vào nhau, nằm ngửa sóng đôi bên nhau, mắt nhìn đăm đăm vào khoảng mờ trắng của sương đêm, cùng hồi hộp chờ một tiếng vạc rất nhỏ kêu thảng thốt trong bầu sương tít trên cao, nghe như vọng về từ một thời hồng hoang nào đó, cái thời chung quanh vùng biển này chỉ có lau lách và tiếng sóng vỗ, chưa có rồi cuối cùng, tìm đi kiếm lại, vác máy ảnh tha thẩn suốt một tuần lễ, tôi quyết định thu vào tờ lịch tháng bảy của năm sau cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc nhập nhoạng sáng. Ai đã cầm máy ảnh có kinh nghiệm đều biết đó là một cảnh chết cháy - một đề tài đã có quá nhiều người khai thác, đã từng để lại những bức ảnh thật đẹp, đầy chất thơ của những người cầm máy ảnh có tên gì đã xui khiến tôi tự thách thức bằng cái việc mạo hiểm ấy? Có lẽ trước hết, không phải do sự hấp dẫn của hình ảnh mà chính là những tiếng động đầy vẻ náo nhiệt ở cách xa hàng cây số cũng nghe tiếng của một nhóm thuyền đánh cá đêm bằng vó bè. Tôi chỉ được nghe cái âm thanh của sự làm ăn có cái gì như ma quái ấy vào những đêm thật tối trời và chỉ được nghe thấy vào quãng gần sáng, vào lúc mà thằng Phác - thằng bé từ trên rừng "hạ sơn" xuống đã nép vào sườn tôi ngủ say như chết sau khi nó cặn kẽ giải thích cho tôi nghe cuộc sống của những giống chim trên rừng, trước mùa thu, trước mùa giá rét rất lâu, chúng đã nháo nhác rời tổ xây trên các lùm cây dẻ um tùm để làm những cuộc di phải ngay trong mấy ngày đầu mới đến mà về sau, khi đã chụp trọn gần một cuốn phim, tôi mới có dịp hiểu đôi chút về cách làm ăn lâu đời của những "tổ hợp tác" gồm những chiếc thuyền đánh cá không có bến này. Bao giờ họ cũng chỉ liên kết với nhau chỉ trong một đêm hoặc một ngày chứ không lâu. Thường thường mỗi thuyền là một gia đình, ngoài thuyền lớn còn vài chiếc mủng để đi lại. Cuộc sống cứ lênh đênh khắp cả một vùng phá mênh mông. Cưới xin, sinh con đẻ cái, hoặc lúc nhắm mắt cũng chỉ trên một chiếc thuyền. Xóm giềng không có. Quê hương bản quán cả chục cây số trời nước chứ không cố kết vào một khoảnh đất một buổi sáng tôi thức dậy. Đàng đông đã sáng trắng. Trên một nửa vòm trời sao đã lặn hết. Những đám mây hình vỏ sò cứ hồng lên dần, trong khi đó, mặt biển tuy đã sáng rõ, đến cái mức đứng trong bờ cũng nhìn thấy từng đường gấp nếp lăn tăn trên mặt tấm thép dát màu xám đục, nhưng sao mà tẻ nhạt, tiếng sóng ồ ồ dội vào giấc ngủ suốt đêm chạy trốn đi đâu hết, biển im thít và không màu sắc, như một con sứa khổng lồ giạt vào chỗ bãi xe tăng nhìn ra, một nhóm chừng dăm chiếc thuyền vó vừa tắt đèn. Những chiếc măng sông treo thõng giữa lòng các tấm lưới đã tắt hết nhưng những đợt tiếng la thét vẫn cứ vang lên. Đó là đám người đã được phân công làm công việc xua cá vào lưới. Phần nhiều đàn bà, trẻ con, họ ngồi trên những chiếc mủng lúc nào cũng thả trôi lượn lờ mé ngoài. Có khi tản mát mỗi nơi một chiếc. Số mủng bất chợt được tập hợp lại, từ bốn góc hối hả chèo tới. Đến cự ly cách mũi thuyền chừng trăm mét, tất cả buông chèo vớ lấy hai gióng tre khô vứt trong lòng mủng gõ ầm ầm, có người dùng ngay bơi chèo gõ vào thành mủng, tay gõ miệng hét- Hới, hới...Trong mấy cái phút ấy, tôi quỳ một chân trên nền cát ướt, máy đã đặt sát vào mắt như một người đi săn chỉ rình ít phút nữa con thú sẽ tuông ra khỏi cánh rừng, tôi chờ cái lúc năm sáu chiếc lưới vó cùng một lúc từ từ dâng bấm máy lia lịa. Qua khuôn hình ánh sáng, tôi đã hình dung thấy trước những tấm ảnh nghệ thuật của tôi sẽ là vài ba chiếc mũi thuyền và một cảnh đan chéo của những tấm lưới đọng đầy những giọt nước, mỗi mắt lưới sẽ là một nốt nhạc trong bản hòa tấu ánh sáng và bóng tối, tượng trưng cho khung cảnh bình minh là một khoảng sáng rực rỡ đến mức chói mắt, trong khoảng sáng đó sẽ hiện lên trong tầm nhìn thật xa những đường nét của thân hình một người đàn bà đang cúi lom khom, sải cánh tay thật dài về phía trước kéo tấm lưới lên khỏi mặt nước, và phía sau lưng người đàn bà, hình một ngư phủ và một đứa trẻ đứng thẳng trên đầu mũi thuyền, dùng lực toàn thân làm đòn bẩy nâng bổng hai chiếc gọng lưới chĩa thẳng lên chung tôi đã tìm được một bố cục chặt chẽ, và tôi lại có tính duy tâm nghề nghiệp, tôi lại còn tin vào cái ngẫu nhiên đầy "số đỏ" của tôi nữa. Tôi nghĩ rằng với những tay nhiếp ảnh nghệ thuật, nếu không có thêm sự sắp đặt đầy tài tình của ngẫu nhiên thì với tài ba đến bao nhiêu, anh cũng chỉ... thu được những tấm ảnh vô như lúc tụ lại, cái đội hình của sự làm ăn trôi nổi trên mặt nước tản ra rất nhanh. Đây là mẻ lưới cuối cùng. Trong nháy mắt, trước mặt tôi chỉ còn một khoảng phá nước trống bấy giờ trời đầy mù từ ngoài biển bay vào. Lại lác đác mấy hạt mưa. Tôi rúc vào bên bánh xích của một chiếc xe tăng để tránh mưa, đang lúi húi thay phim lúc ngẩng lên thấy một chuyện hơi lạ một chiếc thuyền lưới vó mà tôi đoán là trong nhóm đánh cá ban nãy đang chèo thẳng vào trước mặt lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh "đắt" trời cho như vậy trước mặt tôi là một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào? Chẳng biết ai đó lần đầu đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức? Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong gần tâm phải lựa chọn xê dịch gì nữa, tôi gác máy lên bánh xích của chiếc xe tăng hỏng bấm "liên thanh" một hồi hết một phần tư cuốn phim, thu vào chiếc Pratica cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang chắc mẩm ngay trong ngày hôm nay hoặc sáng mai đã có thể nhẩy lên tàu hỏa trở về, nếu cái anh bạn đồng ngũ không cố níu giữ ở lại chơi thêm vài bữa.** *Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng. Một người đàn ông và một người đàn bà rời chiếc thuyền. Họ phải lội qua một quãng bờ phá nước ngập đến quá đầu gối. Bất giác tôi nghe người đàn ông nói chõ lên thuyền như quát "Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ".Chắc chắn họ không trông thấy tôi. Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ. Người đàn ông đi sau. Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâu vào phía trong có một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ, chiếc xe sơn màu vàng tươi và to lớn gấp đôi một chiếc xe tăng. Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống đàn ông lập tức trở lên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn "Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!".Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn cả mọi việc xẩy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác - thằng bé trên rừng xuống vừa nằm ngủ với tôi từ lúc nửa đêm. Thằng bé cứ chạy một mạch, sự giận dữ căng thẳng làm nó khi chạy qua không nhìn thấy tôi. Như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm, mặc cho tôi gọi nó vẫn không hề ngoảnh lại, nó chạy tiếp một quãng ngắn giữa những chiếc xe tăng rồi lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn y hệt người đàn bà, thằng bé của tôi cũng như một người câm, và đến lúc này tôi biết là nó khỏe đến thế!Khi tôi chạy đến nơi thì chiếc thắt lưng da đã nằm trong tay thằng bé, không biết làm thế nào nó đã giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên. Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền giang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát. Rồi lão lẳng lặng bỏ đi về phía bờ nước để trở về thuyền. Không hề quay mặt nhìn lại, chỉ có tảng lưng khum khum và vạm vỡ càng có vẻ cúi thấp hơn, nom lão như một con gấu đang đi tìm nguồn nước uống, hai bàn chân chữ bát để lại những vết chân to và sâu trên bãi cát hoang đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn - vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục Phác, con ơi!Miệng mếu máo gọi, người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy. Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống những giòng nước mắt, nó lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt người mẹ như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng rồi bất ngờ người đàn bà buông đứa trẻ ra, đi thật nhanh ra khỏi bãi cát xe tăng hỏng, đuổi theo lão đàn ông. Cả hai người lại trở về chiếc khắc sau, bãi cát lại trở về với vẻ mênh mông và hoang sơ. Giữa tiếng sóng ngoài khơi dội những tiếng kêu ồ ồ vào cõi im lặng, chỉ có tôi và thằng bé đứng trơ giữa bãi xe tăng hỏng, trên tay thằng nhỏ vẫn cầm chiếc thắt lưng, hai chúng tôi đưa mắt ngơ ngác nhìn ra một quãng bờ phá vừa ban nãy chiếc thuyền trong câu chuyện cổ đầy quái đản, chiếc thuyền lưới vó đã biến mất.** *Tôi bước về phía nó. Nhưng thằng bé không cho tôi lại gần. Tự nhiên thằng nhỏ vô cớ đâm ra thù ghét cả tôi - hết sức thù ghét, nhìn vào hai con mắt của nó, tôi đọc thấy được điều tại sao từ trước tới giờ tôi không để ý nhỉ, lần đầu tiên tôi sực nhận thấy nó chính là một thằng bé vùng biển. Những món tóc vàng hoe có chỗ đỏ quạch như mớ lưới tơ đã bợt bạt đang tỏa ra mùi nước mặn che lấp gần hết khuôn trán nhỏ và cặp mắt đầy vẻ ngây thơ, lúc này chả khác nào cặp mắt của một chú hổ con từ miền rừng vừa lạc ngày sau thằng Phác đối xử với tôi như một kẻ hoàn toàn xa lạ, như chưa bao giờ trò chuyện, ngủ chung với tôi. Mỗi lúc bắt gặp tôi khoác chiếc máy ảnh đi trên bãi cát, nó vẫn nhìn tôi bằng con mắt âm thầm giấu kín đầy một sự thù ghét - và tôi hiểu rằng tất cả lỗi lầm của tôi chính là ở chỗ tôi đã trót có dịp biết được tất cả mọi việc trong nhà nó, cái thằng trẻ con lạ kỳ nhất trần đang tìm cách dỗ dành để gần nó, lại bắt đầu làm quen trở lại với nó một lần nữa, cái chú chó sói con ấy, thì đến là quá quắt, thằng bé thông minh và dễ thương đã hoàn toàn biến thành một đứa trẻ độc ác và mất dậy, nó hét lên trước mặt tôi bằng giọng the thé đầy giận dữ "Hãy cút đi! Cút đi!". Chính lúc ấy là lúc chiếc thuyền vó bè lại hiện ra trong làn sương sớm của một buổi mai, sau lần trước ba cả diễn ra y như lần trước. Chiếc thuyền đâm vào đúng quãng bờ phá ngày hôm trước - từ đó đi bộ vào bãi xe tăng hỏng rất vẫn như lần trước, người đàn bà lội xuống trước với cái khuôn mặt cúi gằm xuống, và những bước chân thoăn thoắt đi lên bãi cát. Nhưng khi lão đàn ông vừa rời thuyền để đuổi theo người đàn bà thì trong lúc ấy, ngay sau lưng lão, một đứa con gái cũng tượt xuống ở đằng lái, bơi con gái trạc 14, 15 tuổi. Đấy là trông vóc người và mái tóc xõa ngang vai - chứ cũng có thể con gái vùng biển ở cái vóc dạng ấy, chỉ mới 12, 13. Nó mềm mại và nhanh như một con vượn đen tuyền trong bộ quần áo đen ướt rượt bó sát vào mình. Trên đôi cẳng rám nắng, con bé chạy như bay về phía chỗ thằng Phác từ đầu thằng bé hình như muốn tránh giáp mặt đứa con gái nhưng không thoát, thực sự là đứa con gái lớn hơn và có vẻ rất đứa trẻ vật nhau. Có một lúc thằng Phác vùng ra được khỏi đứa con gái, định bỏ chạy, nhưng chỉ sau vài sải chân rượt sát ngay sau lưng, đứa con gái đã nhanh nhẹ giơ tay túm được vạt áo thằng Phác, lôi giật con gái - mà tôi đoán là con chị - đã đè ngửa thằng bé ra giữa bãi cát và đến bây giờ thì tôi mới hiểu, đứa con gái đã rút ra được từ trong cạp quần đùi của thằng bé một vật sáng loáng. Trời ơi, đó là một con dao găm.** *Đẩu, anh bạn chiến đấu cũ lái Hon-đa đến đón tôi ở một trạm xá xã. Những người thợ xưởng đóng thuyền đã dìu tôi từ bãi tăng về đấy chưa đầy một chồng - cái lão đàn ông độc ác và tàn nhẫn nhất thế gian ấy đánh tôi hoàn toàn vì mục đích tự vệ. Tôi nện hắn cũng đã khiếp. Tôi nện hắn bằng tay không, nhưng cú nào ra cú ấy, không phải bằng bàn tay một anh thợ chụp ảnh mà bằng bàn tay rắn sắt của một người lính giải phóng đã từng mười năm cầm súng. Tôi đã chiến đấu trong mấy ngày cuối cùng chiến tranh trên mảnh đất này. Bất luận trong hoàn cảnh nào tôi cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng kín đáo cho hắn đưa tôi về cơ quan của anh. Cô y tá của cơ quan tòa án huyện, một cô gái chưa chồng, đã luống tuổi và béo phục phịch nhận lệnh của thủ trưởng Đẩu mang túi thuốc mắt cô y tá, mấy vết thương xoàng trên trán tôi chả khác nào những vầng hào quang của một người anh hùng. Vừa băng lại các vết thương cho tôi cô vừa kể lể bằng tất cả giọng phẫn nộ thói tàn nhẫn của dân đàn ông đánh cá trong vùng địa phương này - do phong tục để Hãm bớt ngọn lửa căm thù xuống bà chị ạ, dù sao thì đàn ông cũng cần, đôi khi rất cần - dù là chánh án của tòa án huyện, Đẩu vẫn không chịu bỏ cái thói hay bông Thà tôi chết già, các anh đừng tưởng, thà tôi làm gái già suốt đời! - Cô y tá luống tuổi cứ chĩa mũi kéo đang kẹp một dúm bông đã tẩm cồn vào giữa mặt Đẩu. Anh chỉ nhe răng cười. Vừa tha được tôi về đến nơi là Đẩu đã chúi mũi vào giữa hàng núi hồ sơ. Những vụ kiện tụng. Những vụ án hình sự lặt vặt cũng có, những vụ nghiêm trọng cũng ngày sau, những vết thương của tôi đã lên da non. Ngồi soát lại tất cả những cuốn phim đã chụp, dù sao thì tôi cũng đã thấy yên tâm về công việc. Tôi tin là nếu chiếc Pratica trung thành với tôi thì phen này tôi có thể đánh ngã bất kỳ một bức ảnh mô tả phong cảnh biển nên thơ nào từ ngỏ ý với Đẩu muốn trở lại cái xưởng đóng thuyền nằm ngủ giữa trời với thằng bé một tối, trước khi trở về Hà Nội. Nhưng Đẩu bảo tôi nán lại với anh thêm vài một buổi sáng có một chiếc mảng chở hai người đàn bà ghé vào bến tòa thầm cảm ơn Đẩu đã giữ mình ở nán lại. Nếu thiếu nữ không đi theo mẹ đến tòa án - người đàn bà mặt rỗ hai lần tôi giáp mặt trong bãi xe tăng hỏng - thì chắc chắn tôi không thể nhận ra đó chính là đứa con gái ướt sũng từ đầu đến chân, đã vật nhau với thằng Phác để tước lấy con dao nữ mảnh dẻ trong tấm áo cánh mầu tím nhạt. Lại một cặp mắt như cặp mắt của đứa trẻ lên năm mà tôi đã chọn để cầm vứt một nắm phoi bào ra giữa ngọn sóng bạc đầu - một cặp mắt đen của chiếc thuyền mới đóng. Tuy chẳng hiểu chút gì về nghệ thuật điện ảnh, nhưng bất giác tôi cứ nghĩ giá sau này cần một vai như kiểu nàng tiên cá thì nhất thiết phải chọn người thiếu nữ này. Tôi tự hỏi chẳng lẽ cái nhan sắc đang độ trẻ con như đúc từ trời biển trong suốt, nên thơ này lại được tách ra từ da thịt của một người đàn bà hàng chài xấu xí và đau khổ?Người đàn bà dặn con gái hãy ở lại dưới thuyền rồi với dáng đi mệt mỏi, chậm chạp như một bà già, trèo lên những bậc đá xếp từ bờ phá lên một con đường nhựa đã long lở, hai bên đường phơi đầy lưới chài, của phố huyện vùng đàn bà vẫn mặc chiếc áo mầu bạc phếch vì nước mặn, một miếng vá bằng vải xanh bằng bàn tay trên vai, những nốt rỗ trên mặt có vẻ thưa ra, đứng trong phòng làm việc của Đẩu, tôi nhận ra ngay mụ. Hôm nay người đàn bà rời chiếc thuyền vó bè "đổ bộ" lên tận đây theo giấy triệu tập của tòa án là lần thứ hai, người đàn bà được Đẩu mời đến về công việc gia không phải là lần đầu đến một nơi công sở nhưng người đàn bà vẫn có vẻ sợ sệt, lúng túng - cái vẻ lúng túng, sợ sệt mà ngay lúc mụ đứng giữa bãi xe tăng cũng không hề thấy đàn bà chỉ quen sống giữa mặt nước vừa đặt chân vào trong phòng đầy bàn ghế và giấy má liền tìm đến một góc tường để sau một chiếc bàn lớn, Đẩu nhổm dậy chỉ chiếc ghế mây trước mặt, cố làm ra vẻ thân mật;- Chị ngồi lên đây, sao lại thế, hãy ngồi lên chiếc ghế này...Đẩu phải nói đến lượt thứ hai, mụ mới dám rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố thu người hỏi- Thế nào, chị đã nghĩ kỹ chưa?Người đàn bà ngước lên nhìn Đẩu, rồi lại cúi mặt Thưa đã...Đẩu gật đầu. Anh đứng dậy. Tự nhiên anh rời chiếc bàn đến đứng vịn vào lưng ghế người đàn bà ngồi giọng trở nên đầy giận dữ, khác hẳn với giọng một vị chánh án- Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn. Tôi chưa hỏi tội của hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu. Chị nghĩ thế nào?Người đàn bà hướng về phía Đẩu, tự nhiên chắp tay vái lia lịa- Con lạy quí tòa...- Sao, sao?- Quí tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...Lúc bấy giờ tôi đang ngồi giấu mặt sau bức màn vải hoa ngăn chỗ làm việc bên ngoài và phòng ngủ bên trong của Đẩu. Sau câu nói của người đàn bà, tôi cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá. Tôi vén lá màn bước đàn bà nhận ra được tôi ngay. Mụ nhấp nhổm xoay quanh chiếc ghế như bị kiến đốt, và về sau tôi mới sực nghĩ ra, mụ nghĩ rằng tòa án đã bố trí sẵn tôi ngồi phía sau để chuẩn bị làm nhân Chị cứ ngồi nguyên đấy! - Đẩu nói và với vẻ đầy hào hứng của một con người bảo vệ công lý vừa có thêm người đến tiếp viện, anh chạy sang phòng bên xách một chiếc ghế cho tôi. Bấy giờ dưới con mắt của người đàn bà hàng chài, vị chánh án không phải là Đẩu đã trở về ngồi sau chiếc bàn lớn mà là tôi, với mấy vết thương đã lên da non nhưng vẫn để dấu vết trên Tùy bà! - Đẩu thay đổi cách xưng hô, khoác lên mình cái cung cách bề ngoài của một vị chánh án - chủ trương nguyên tắc của chúng tôi là kêu gọi hòa thuận...Đang ngồi cúi xuống, người đàn bà bỗng ngẩng lên nhìn thẳng vào chúng tôi, lần lượt từng người một, với một vẻ ban đầu ngơ Chị cám ơn các chú! - Người đàn bà đột nhiên thốt lên bằng một giọng khẩn thiết - Đây là chị nói thành thực, chị cám ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc...Chỉ mấy lời mào đầu ấy, người đàn bà đã mất hết cái vẻ ngoài khúm núm, sợ sệt. Điệu bộ khác, ngôn ngữ phải nói thật, những lời ấy, nhất là đấy lại là lời một người đàn bà khốn khổ, không phải dễ nghe đối với chúng tôi. Dầu mặt hãy còn trẻ, Đẩu cũng là một chánh án huyện. Còn tôi, một người đáng lẽ mụ phải biết ơn...Nhưng người đàn bà để lộ ra cái vẻ sắc sảo chỉ đến thế, chỉ vừa đủ để kích thích trí tò mò của chúng tôi. Mụ đưa cặp mắt đầy vẻ mệt mỏi nhìn ra ngoài bờ phá bên kia con đường chính của phố huyện ở đấy, thiếu nữ mặc áo tím vẫn ngồi đợi mụ trên chiếc phút chốc, ngồi trước mặt chúng tôi lại vẫn là một người đàn bà lúng túng, đầy sợ sệt, nhưng có vẻ thông cảm với chúng tôi hơn. Mụ bắt đầu kể- Từ nhỏ tuổi tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa. Hồi bấy giờ nhà tôi còn khá giả, nhà tôi trước ở trong cái phố này. Cũng vì xấu, trong phố không ai lấy, tôi có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả 1 về đan lưới. Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình- Giá tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc 2, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối... cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính - bỗng mụ đỏ mặt - nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại Vậy sao không lên bờ mà ở - Đẩu Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!- Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? - Tôi Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu... Giá mà lão uống rượu... thì tôi còn đỡ khổ... Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão... đưa tôi lên bờ mà đánh...- Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! - Đẩu và tôi cùng một lúc thốt Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông...- Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, - bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát, - trên thuyền phải có một người đàn ông... dù hắn man rợ, tàn bạo?- Phải - Người đàn bà đáp - Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú?Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp- Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó! - Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười - vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? Đột nhiên tôi Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no...Viên chánh án huyện rời chiếc bàn xếp đến phát ngốt lên những chồng hồ sơ, giấy má. Đẩu đi đi lại lại trong phòng, hai tay thọc sâu vào hai bên túi chiếc quần quân phục đã cũ. Một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển, lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy đàn bà đã khóc khi nghe tôi nhắc đến thằng Phác. Nhưng tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu cái lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài. Trong cái đám con cái đông đúc đang sống ở dưới thuyền, mụ không yêu một đứa nào bằng thằng Phác, cái thằng con từ tính khí đến mặt mũi giống như lột ra từ cái lão đàn ông đã từng hành hạ mụ, và không khéo sẽ còn hành hạ mụ cho đến khi chết - nếu không có cách mạng cho chúng tôi biết, vì sợ thằng bé có thể làm điều gì dại dột đối với bố nó, mụ đã phải gửi nó lên rừng nhờ bố mình nuôi đã nửa năm nay. ở với ông ngoại, thằng bé sướng hơn ở trên thuyền với bố mẹ. Nhưng hễ rời ra là nó trốn về. Thằng bé tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị hôm ấy trong khi Đẩu gặp lão đàn ông để giáo dục răn dạy lão thì tôi trở lại xưởng đóng thuyền. Vắng thằng Phác, dù sao cái bãi cát cũng như cả vùng phá nước trở nên trống trải thế nào ấy. Đêm, những đàn chim di cư vẫn vỗ cánh trong sương, bay qua vùng phá. Tôi khoác chiếc máy ảnh đi lang thang cho đến tận khuya, đã mỏi cả chân, tôi đến ngồi bên một ngọn lửa. Nhím phoi bào bắt cháy sang mấy cái đầu mẩu gỗ cưa ra từ các lẻ ván của một chiếc thuyền mới vớt lên được, sau vụ đắm thuyền trong vụ bắc năm sáng trời trở gió đột ngột, từng tảng mây đen xếp ngổn ngang trên mặt biển đen ngòm, và biển bắt đầu gào thét, sóng bạc đầu ngoài cửa lạch nổi cồn lên cao như những ngọn núi tuyết phá, các thứ tầu thuyền đều tìm vào bờ để trú, duy ở giữa phá chẳng hiểu vì sao vẫn còn thấy một chiếc thuyền vó bè đang rú ào ào chung quanh chiếc xe Reo vừa mới ở trên rừng xuống, chưa giỡ gỗ xuống hết. Cái ông lão đã ngoài sáu mươi mà vẫn còn theo đuổi nghề sơn tràng đang ngồi bên bếp lửa giữa trời, vẫn đặt hai con mắt đầy vẻ lo lắng ra ngoài mặt phá, nơi có chiếc bếp lửa cũng bị gió ném tung ra khắp bãi cát, những tàn lửa đỏ rực bay quẩn lên chung quanh chỗ tôi và ông lão ngồi. Tôi xem lại xoong cơm đã sống nhăn hộ ông lão, đoạn gào lên- Chiều gió này không khéo bão cấp 11 rồi?- Ừ, ừ... ! - Ông lão lẩm bẩm, vẫn không rời mắt khỏi chiếc thuyền đang chống chọi với sóng gió giữa phá.** *Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm. Trưởng phòng rất bằng lòng về những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám Minh ChâuI. Đôi nét về tác giả Nguyễn Minh Châu- Nguyễn Minh Châu sinh năm 1930, mất năm 1989, quê ở làng Thơi, xã Quỳnh Hải nay là xã Sơn Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An- Đầu năm 1950, ông gia nhập quân đội, theo học Trường Sĩ quan Lục quân Trần Quốc Tuấn- Từ năm 1952 đến năm 1958, ông công tác và chiến đấu tại Sư đoàn Năm 1962, ông về Phòng Văn nghệ quân đội, sau chuyển sáng tạp chí Văn nghệ Quân đội- Nguyễn Minh Châu được coi là một trong số những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới- Năm 2000, ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật- Tác phẩm chính Cửa sông tiểu thuyết, 1967, Những vùng trời khác nhau tập truyện ngắn, 1970, Dấu chân người lính tiểu thuyết, 1972, Miền cháy tiểu thuyết, 1977, Lửa cháy từ những ngôi nhà tiểu thuyết, 1977, Những người đi từ trong rừng ra tiểu thuyết, 1982, Mảnh đất tình yêu tiểu thuyết, 1987, Từ giã tuổi thơ tiểu thuyết, 1974, Những ngày lưu lạc tiểu thuyết, 1981, Đảo đá kì lạ tiểu thuyết, 1985, Trang giấy trước đèn tập tiểu luận phê bình, 1994, Người đàn bà trên chiếc thuyền tốc hành 1983, Bến quê 1985, Chiếc thuyền ngoài xa 1987, Cỏ lau 1989,…- Đặc điểm sáng tác+ Trước năm 1975 viết về đề tài chủ nghĩa anh hùng trong chiến đấu, mang thiên hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn+ Sau năm 1975 cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức, mang tính triết lí sâu sắc; ngôn ngữ đời thường, bình dị, gần gũiII. Đôi nét về tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa1. Hoàn cảnh ra đời- Tác phẩm được viết vào tháng 8 năm 1983, in trong tập truyện ngắn cùng tên- Tác phẩm là một trong số những sáng tác tiêu biểu của văn học Việt Nam từ sau năm 1975 đến cuối thế kỉ XX2. Tóm tắt tác phẩmĐể có thể xuất bản được một bộ lịch về thuyền và biển, nhận lời của trưởng phòng, nghệ sĩ Phùng đi tới một vùng biển đã từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ. Sau mấy buổi sáng phục kích, anh đã chụp được một cảnh “đắt” trời cho – cảnh chiếc thuyền ngoài xa trong làn sương sớm, đẹp như một bức tranh mực tàu. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh đã ngạc nhiên đến sững sờ khi chứng kiến từ chính chiếc thuyền đó cảnh người chồng vũ phu đang đánh đập vợ mình một cách dã man, đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh trả lại cha mình. Những ngày sau, cảnh tượng đó lại tiếp diễn và lần này anh đã ra tay can thiệp. Theo lời mời của chánh án Đẩu một người đồng đội cũ của Phùng người đàn bà hàng chài đã đến toà án huyện. Tại đây, người phụ nữ ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và anh, nhất quyết không bỏ người chồng vũ phu. Chị đã kể câu chuyện về cuộc đời mình và đó cũng là lí do giải thích cho sự từ chối trên. Rời khỏi vùng biển với khá nhiều bức ảnh, Phùng đã có một tấm được chọn vào bộ lịch tĩnh vật hoàn toàn” về thuyền và biển” năm ấy. Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm ảnh, Phùng đều thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn bao giờ anh cũng thấy hình ảnh người đàn bà nghèo khổ, lam lũ bước ra từ tấm Bố cục 3 phần- Phần 1 từ đầu đến “chiếc thuyền lưới vó đã biến mất” Hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng- Phần 2 tiếp đó đến “chống chọi với sóng gió giữa phá” Câu chuyện về người đàn bà hàng chài- Phần 3 còn lại Tấm ảnh được chọn trong bộ lịch năm ấy4. Giá trị nội dungTừ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đòi đằng sau bức ảnh, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện Giá trị nghệ thuật- Cốt truyện có nhiều tình huống độc đáo, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống- Chọn ngôi kể, hình thức kể chuyện phù hợp- Nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo, đặc sắc- Xây dựng nhiều hình ảnh, hình tượng vừa chân thực vừa chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa sâu sắcIII. Dàn ý phân tích Chiếc thuyền ngoài xaI. Mở bài- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Minh Châu tiểu sử, các sáng tác chính, phong cách nghệ thuật…- Giới thiệu về tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật…II. Thân bài1. Hai phát hiện của nghệ sĩ Phùnga Vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa – cảnh đắt trời cho- Cảm nhận của người nghệ sĩ+ Nhận xét đó là “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích+ Bối rối, trong tim như có cái gì đó thắt vào+ Nhận ra rằng bản thân cái đẹp là đạo đức bởi nó có khả năng gột rửa tâm hồn→ Một người nghệ sĩ rất tinh tế, nhạy bén, có khả năng rung động trước cái đẹpb Bức tranh cuộc sống thô bạo, phi nhân đạo, tàn nhẫn- Cảnh gã đàn ông đánh đập vợ- Cảm nhận của người nghệ sĩ+ Kinh ngạc đến mức cứ há hốc mồm ra mà nhìn+ Chết lặng người→ Phùng như không tin vào mắt mình bởi trước khung cảnh chiếc thuyền ngoài xa đẹp lung linh thì giờ đây trước mặt ông lại là cảnh tượng vũ phu, tàn nhẫnc Mối quan hệ giữa hai bức tranh- Hai cảnh tượng này hoàn toàn đối lập, trái ngược nhau, đó là sự đối lập giữa cái đẹp với cái xấu, giữa cái đạo đức với cái phi đạo đức, giữa cái thanh cao, trong trẻo với cái tàn nhẫn, thô bạo- Thông điệp của tác giả Nguyễn Minh Châu cuộc đời không bao giờ đơn giản, xuôi chiều mà rất đa đoan, đa sự, luôn chứa đựng những mâu thuẫn, nghịch Câu chuyện về người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện- Lí do xuất hiện chánh án Đẩu mời đến để giải quyết việc gia đình- Tình huống truyện dù thường xuyên chịu những trận đòn, bị đánh đập nhưng người đàn bà hàng chài chấp nhận đánh đổi mọi thứ để không phải bỏ chồng- Nguyên nhân người đàn bà hàng chài không chịu bỏ chồng+ Người đàn ông là trụ cột của gia đình+ Nuôi những đứa con+ Có lúc vợ chồng sống hòa thuận lắm- Sự thay đổi trong thái độ, lời nói, cách xưng hô của người đàn bà hàng chài+ Xưng hô con – quý tòa sang chị - các chú+ Thái độ từ sợ sệt, van xin sang cách nói đầy sắc sảo→ Người đàn bà không cam chịu một cách vô lí mà ngược lại, bà rất am hiểu sự đời, suy nghĩ sắc sảo, thấu tình đạt lí và giàu đức hi sinh, bà không thể chỉ sống cho mình mà còn vì cả những đứa con- Người đàn bà kể về chồng của mình+ Một người đàn ông cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập vợ+ Cuộc sống nghèo khổ, ngày càng túng quẫn, người đàn bà đẻ nhiều, thuyền chật nên chồng bà mới trở nên độc dữ như vậy→ Trong suy nghĩ của bà, sự độc dữ của chồng bà chỉ là sản phẩm của sự nghèo đói, lam lũ- Sự khác nhau trong cách nhìn người chồng vũ phu của Phùng, Đẩu, thằng Phán và người đàn bà+ Phùng, Đẩu, thằng Phán chỉ nhìn ở vẻ bề ngoài+ Người đàn bà ngoài vẻ bề ngoài bà còn nhận ra bản chất bên trong và nguyên nhân dẫn tới sự độc ác, hung dữ của chồng bà⇒ Thông qua câu chuyện về người đàn bà ở tòa án huyện, tác giả Nguyễn Minh Châu gửi đến thông điệp về cách nhìn nhận cuộc đời đừng nhìn cuộc đời, con người một cách phiến diện mà phải có cái nhìn đa chiều, trong nhiều mối quan hệ khác nhau3. Tấm ảnh được chọn trong bộ lịch năm ấy- Khi nhìn vào tấm ảnh đen trắng ấy, Phùng thấy+ Cái màu hồng hồng của sương mai.+ Hình ảnh người đàn bà bước ra từ trong Ý nghĩa biểu tượng+ Màu hồng hồng của sương mai; vẻ ẹp bay bổng, lãng mạn.+ Hình ảnh người đàn bà hiện thực cuộc đời.→ Nghệ thuật và cuộc đời có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, nghệ thuật phải bắt nguồn từ hiện thực đời Kết bàiKhái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của tác liệu liên quan đến bài Chiếc thuyền ngoài xaTóm tắt tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh ChâuPhân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh ChâuPhân tích vẻ đẹp của tình mẫu tử ở hai nhân vật Mai Rừng xà nu và người đàn bà hàng chài Chiếc thuyền ngoài xaÔn thi đại học môn Văn theo chuyên đề Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh ChâuPhân tích tình huống truyện trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh ChâuSo sánh nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ với người đàn bà làng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xaSo sánh chi tiết nước mắt trong Vợ nhặt Kim Lân và Chiếc thuyền ngoài xa Nguyễn Minh ChâuGiáo án Chiếc thuyền ngoài xaVăn mẫu lớp 11 Phân tích hình ảnh người đàn bà trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh ChâuSo sánh cách nhìn nghệ thuật của hai nhân vật Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa và Vũ Như Tô trong Vĩnh biệt Cửu Trùng ĐàiÝ nghĩa nhan đề Chiếc thuyền ngoài xa Nguyễn Minh ChâuPhân tích đoạn cuối tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh ChâuPhân tích hình ảnh chiếc thuyền trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh ChâuBài giảng Chiếc thuyền ngoài xa Ngữ văn 12Phân tích nghịch lý trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh ChâuÔn thi đại học môn Văn Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh ChâuĐề kiểm tra môn Ngữ Văn lớp 12 - "Chiếc thuyền ngoài xa" Nguyễn Minh Châu Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâu vào phía trong có một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ, chiếc xe sơn màu vàng tươi và to lớn gấp đôi một chiếc xe tăng. Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống đàn ông lập tức trở lên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn cả mọi việc xẩy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác – thằng bé trên rừng xuống vừa nằm ngủ với tôi từ lúc nửa đêm. Thằng bé cứ chạy một mạch, sự giận dữ căng thẳng làm nó khi chạy qua không nhìn thấy tôi. Như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm, mặc cho tôi gọi nó vẫn không hề ngoảnh lại, nó chạy tiếp một quãng ngắn giữa những chiếc xe tăng rồi lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông. Cũng y hệt người đàn bà, thằng bé của tôi cũng như một người câm, và đến lúc này tôi biết là nó khỏe đến thế!Khi tôi chạy đến nơi thì chiếc thắt lưng da đã nằm trong tay thằng bé, không biết làm thế nào nó đã giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên. Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát. Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu, SGK Ngữ văn 12, NXBGD 2008, tr 72-73Phân tích phát hiện của nghệ sĩ Phùng được thể hiện ở đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét tình huống nhận thức trong tác phẩm.* Vấn đề nghị luậnPhát hiện thứ hai của Phùng, hiện thực cuộc sống nghiệt ngã khi chiếc thuyền vào gần bờ. Qua đó bộc lộ tình huống nhận thức của tác phẩm.

từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng