nghị định 71 bất động sản

Nội dung Nghị định 02/2022/NĐ-CP hướng dẫn Luật Kinh doanh Bất động sản. NGHỊ ĐỊNH. QUY ĐỊNH CHI TIẾT THI HÀNH MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT KINH DOANH BẤT ĐỘNG SẢN. Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ Xôi Lạc TV là gì? XoilacTV ( Xoilac TV) là sản phẩm ra đời dành cho những fan hâm mộ bóng đá tại Các bài viết tin tức bóng đá, soi kèo, nhận định trước và sau trận đấu liên tục được cập nhật. chuyên nghiệp ở Đức và là giải bóng đá với lượng khán giả đến sân vận động trung bình cao nhất thế giới. Nếu vì một lí do bất khả kháng nào đó mà bạn không thể xem những trận đấu bóng đá trên Tivi thì Khỏi nói thì anh em cũng biết, Bất động sản là một thị trường đã có từ xưa, với quy mô $9,6 nghìn tỷ, thu hút khoảng 71% các nhà đầu tư nhỏ lẻ tại Mỹ. Tuy thị trường nghe "thơm" thế, nhưng bên trong đầy rẫy những hạn chế cho đến hiện tại vẫn còn: Trong đó, cấp thẩm quyền cần bổ sung quy định giao dịch chuyển nhượng bất động sản phải thanh toán qua ngân hàng để minh bạch trong kiểm soát giao dịch của các ngành, phục vụ công tác quản Chủ trương về giá bán, giá cho thuê tại dự án Chung cư nhà ở xã hội Thành phố Vàng, phường 2, thành phố Tây Ninh. Ủy ban nhân dân tỉnh có Công văn số 91/UBND-KT ngày 13/01/2021 về việc chủ trương về giá bán, giá cho thuê tại dự án Chung cư nhà ở xã hội Thành phố Vàng Wenn Ein Mann Sich Nicht Treffen Will. Tableau de bord Connexion Créez un compte Trong nghị định 71 cp có rất nhiều điều khoản. Hiện nay đang chờ thông tư ra. Dưới đây là một số ý tóm tắt Huế gửi bạn đọc tham khảo. 1. Khi bán 20% sản phẩm không qua sàn giao dịch, chủ đầu tư phải gửi danh sách người mua, tên, địa chỉ về cho Sở Xây dựng địa phương xác nhận. Nhiều quy định trong Nghị định 71 cp hướng dẫn Luật Nhà ở có hiệu lực từ ngày 8-8 siết chặt và việc này được thị trường xem như là bít cửa về chuyện “lướt sóng”.... Chủ đề bất động sảntài liệu bất động sảnchuyên ngành bất động sảnkinh nghiệm bất động sản Nội dung Text Nghị định 71 CP về bất động sản Nghị định 71 CP về bất động sản Trong nghị định 71 cp có rất nhiều điều khoản. Hiện nay đang chờ thông tư ra. Dưới đây là một số ý tóm tắt Huế gửi bạn đọc tham khảo. 1. Khi bán 20% sản phẩm không qua sàn giao dịch, chủ đầu tư phải gửi danh sách người mua, tên, địa chỉ về cho Sở Xây dựng địa phương xác nhận. Nhiều quy định trong Nghị định 71 cp hướng dẫn Luật Nhà ở có hiệu lực từ ngày 8-8 siết chặt và việc này được thị trường xem như là bít cửa về chuyện “lướt sóng”. Những người thuộc diện được mua nhà trong nhóm 20% sản phẩm không phải giao dịch qua sàn, không được phép chuyển nhượng quyền được phân chia này cho tổ chức, cá nhân khác. Muốn bán nhà phải có xác nhận của Sở Nghị định 71 cp quy định chủ đầu tư dự án bất động sản được bán 20% sản phẩm không thông qua sàn giao dịch. Quy định này nếu mới đọc dễ lầm tưởng là tạo thêm những giao dịch ngầm khiến cho kênh bất động sản vận hành theo hướng không minh bạch. Tuy nhiên, thực tế không phải vậy. Mới đây, khi phân tích về nội dung trên, ông Nguyễn Văn Hiệp, Phó Giám đốc Sở Xây dựng cho biết quy định của luật về phân phối loại sản phẩm này rất chặt. Theo đó, với trường hợp được phân chia 20% sản phẩm nhà ở không phải qua sàn thì chủ đầu tư phải có văn bản thông báo về số lượng, địa chỉ nhà ở và loại nhà ở được phân chia kèm theo danh sách tên, địa chỉ các đối tượng được phân chia nhà ở để Sở Xây dựng nơi có dự án nhà ở xác nhận. Không chỉ vậy, Sở Xây dựng địa phương còn có trách nhiệm đối chiếu với số lượng nhà ở theo thiết kế, quy hoạch của dự án đã được phê duyệt để xác nhận danh sách các đối tượng, loại nhà ở và địa chỉ, diện tích của nhà ở được phân chia. Danh sách này chỉ được xác nhận một lần và được lưu tại Sở để theo dõi, kiểm tra. Ông Hiệp cũng cho biết luật còn quy định chủ đầu tư dự án phát triển nhà ở phải phân chia đúng số lượng, địa chỉ, loại, diện tích nhà ở và đúng tên các đối tượng đã được Sở xác nhận. Không chỉ quy định chặt chẽ về danh sách phân chia 20% sản phẩm nhà ở ưu đãi mà người được phân chia nhà ở còn không được chuyển nhượng quyền được phân chia nhà ở cho tổ chức, cá nhân khác. Và khi đã xây dựng xong phần móng thì chủ đầu tư mới được ký hợp đồng mua bán nhà ở với các đối tượng đã được phân chia sản phẩm nhà ở. Trong trường hợp này, hợp đồng mua bán nhà ở và giấy xác nhận của Sở Xây dựng mới là cơ sở pháp lý để cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho người mua nhà. Hợp đồng vay vốn, góp vốn Tuy nhiên, kể từ ngày 8/8/2010, Nghị định 71 cp không cho phép việc chuyển nhượng đối với đất dự án dạng hợp đồng góp vốn đối với dự án mới chi tiết ở khoản 1, điều 60. Do vậy, những hợp đồng hợp tác ký trước ngày 8/8/2010 cũng sẽ không được phép thực hiện việc huyển nhượng đến khi ký hợp đồng mua bán với chủ đầu tư. Thị trường của những nhà đầu tư dài hạn Dưới tác động của Nghị định 71, khi thị trường bất động sản ngưng giao dịch đối với phân khúc đất dự án dưới dạng hợp đồng vốn góp thì phân khúc nhà và đất có chủ quyền được kỳ vọng sẽ sôi động hơn. Cầu về bất động sản sẽ chuyển sang đất và nhà có chủ quyền thay vì đầu tư đất dự án ở trên. Đồng thời, cung đối với nhà và đất có chủ quyền cũng tăng. Khó tăng giá trong ngắn hạn Từ góc nhìn của người viết, trong ngắn hạn, thị trường bất động sản tại Việt Nam “hậu” Nghị định 71 sẽ khó có khả năng tăng giá, vì những lý do sau Thứ nhất, sự thiếu vắng các nhà đầu cơ trên thị trường thứ cấp, thị trường không có lực kéo để có thể tăng giá. Thứ hai, nhiều khả năng Ngân hàng Nhà nước vẫn sẽ tiếp tục áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt trong thời gian tới nhằm ổn định tiền đồng. Thêm vào đó, việc nâng hệ số rủi ro đối với cho vay bất động sản tăng lên 250% từ mức 100% áp dụng từ ngày 1/10/2019 không khuyến khích ngân hàng cho vay đối với bất động sản đối với cả nhà đầu tư thứ cấp và chủ đầu tư. Thứ ba, sau một thời gian dài tăng giá, giá bất động sản hiện tại không hề rẻ khi so sánh với các nước trong khu vực và định giá theo phương pháp chiết khấu dòng tiền. Tại từ đầu năm 2006 cho đến nay, giá đất tăng khoảng từ 2-4 lần, tại Hà Nội, giá đất thậm chí tăng cao hơn trong cùng khoảng thời gian. Nghi dinh 71 23/6/2010 CP ban hành Nghị định số 71/2010/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở thay thế cho Nghị định số 90 ban hành 9/2006. Nghị định sẽ có hiệu lực từ 8/8/2010. Nghị định tháo nút thắt cho các nhà đầu tư khi hợp pháp hóa hoạt động giao dịch BĐS bằng hình thức góp vốn và đưa ra các điều kiện đi kèm cho hình thức huy động vốn đó. Cụ thể nội dung điều 9 “Huy động vốn để đầu tư XD nhà ở” được quy định như sau Điều 9. Huy động vốn để đầu tư xây dựng nhà ở 1. Trường hợp chủ đầu tư dự án phát triển khu nhà ở, dự án khu đô thị mới chủ đầu tư cấp I có nhu cầu huy động vốn để đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật đối với phần diện tích xây dựng nhà ở và đầu tư xây dựng nhà ở trong khu nhà ở, khu đô thị đó thì chỉ được huy động vốn theo các hình thức sau đây a Ký hợp đồng vay vốn của các tổ chức tín dụng, các quỹ đầu tư hoặc phát hành trái phiếu theo quy định của pháp luật để huy động số vốn còn thiếu cho đầu tư xây dựng nhà ở; bên cho vay vốn hoặc bên mua trái phiếu không được quyền ưu tiên mua hoặc ưu tiên đăng ký mua nhà ở; b Ký hợp đồng góp vốn hoặc hợp đồng hợp tác đầu tư với chủ đầu tư cấp II nhằm mục đích chuyển nhượng quyền sử dụng đất có hạ tầng kỹ thuật cho chủ đầu tư cấp II; c Ký hợp đồng, văn bản góp vốn hoặc hợp đồng, văn bản hợp tác đầu tư với tổ chức, cá nhân để đầu tư xây dựng nhà ở và bên tham gia góp vốn hoặc bên tham gia hợp tác đầu tư chỉ được phân chia lợi nhuận bằng tiền hoặc cổ phiếu hoặc được phân chia sản phẩm là nhà ở trên cơ sở tỷ lệ vốn góp theo thỏa thuận; trong trường hợp các bên thỏa thuận phân chia sản phẩm là nhà ở thì chủ đầu tư chỉ được phân chia cho các đối tượng thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam theo quy định của Luật Nhà ở và phải tuân thủ quy định về số lượng nhà ở được phân chia nêu tại điểm d khoản 3 Điều này; d Ký hợp đồng hợp tác kinh doanh với doanh nghiệp có chức năng kinh doanh bất động sản để đầu tư xây dựng nhà ở và bên tham gia hợp tác kinh doanh chỉ được phân chia lợi nhuận bằng tiền hoặc cổ phiếu hoặc được phân chia sản phẩm là nhà ở theo thỏa thuận; trong trường hợp các bên thỏa thuận phân chia sản phẩm là nhà ở thì phải tuân thủ quy định về số lượng nhà ở được phân chia nêu tại điểm d khoản 3 Điều này; đ Huy động vốn từ tiền mua nhà ứng trước của các đối tượng được quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam theo quy định của Luật Nhà ở thông qua hình thức ký hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. 2. Trường hợp chủ đầu tư dự án phát triển nhà ở độc lập kể cả chủ đầu tư cấp II trong dự án phát triển khu nhà ở, khu đô thị mới, công trình nhà ở có mục đích sử dụng hỗn hợp có nhu cầu huy động vốn để đầu tư xây dựng nhà ở thì chỉ được huy động vốn theo các hình thức quy định tại các điểm a, c, d và điểm đ khoản 1 Điều này. 3. Các chủ đầu tư quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này khi thực hiện huy động vốn để xây dựng nhà ở phải tuân thủ các điều kiện sau đây a Đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này thì chủ đầu tư chỉ được ký hợp đồng góp vốn hoặc hợp đồng hợp tác đầu tư với chủ đầu tư cấp II sau khi đã giải phóng mặt bằng của dự án và đã thực hiện khởi công xây dựng công trình hạ tầng kỹ thuật của dự án. Sau khi đã có các công trình hạ tầng kỹ thuật tương ứng với nội dung và tiến độ của dự án thì chủ đầu tư cấp I được ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho chủ đầu tư cấp II. Trong trường hợp chủ đầu tư cấp II có nhu cầu huy động vốn để xây dựng nhà ở trên diện tích đất nhận chuyển nhượng của chủ đầu tư cấp I thì chỉ được ký hợp đồng huy động vốn sau khi đã có hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký với chủ đầu tư cấp I, có thỏa thuận trong hợp đồng về việc chủ đầu tư cấp II được huy động vốn để xây dựng nhà ở và đã có đủ các điều kiện để huy động vốn theo quy định tại khoản này; trường hợp chưa chuyển quyền sử dụng đất từ chủ đầu tư cấp I sang chủ đầu tư cấp II theo quy định của pháp luật về đất đai thì việc huy động vốn phải được chủ đầu tư cấp I đồng ý bằng văn bản; b Đối với trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều này thì chủ đầu tư chỉ được ký hợp đồng, văn bản góp vốn hoặc hợp đồng, văn bản hợp tác đầu tư sau khi đã có dự án phát triển nhà ở được phê duyệt, đã thực hiện khởi công xây dựng công trình nhà ở và đã thông báo cho Sở Xây dựng nơi có dự án phát triển nhà ở theo quy định tại điểm e khoản này; c Đối với trường hợp quy định tại điểm d khoản 1 Điều này thì chủ đầu tư chỉ được ký hợp đồng hợp tác kinh doanh sau khi đã có dự án nhà ở được phê duyệt, đã thực hiện giải phóng mặt bằng, có biên bản bàn giao mốc giới của dự án và đã thông báo cho Sở Xây dựng nơi có dự án phát triển nhà ở theo quy định tại điểm e khoản này. Trường hợp bên tham gia hợp tác kinh doanh được phân chia sản phẩm là nhà ở mà có nhu cầu bán, cho thuê nhà ở đó thì không được trực tiếp ký hợp đồng mua bán, cho thuê mà do chủ đầu tư bên có quyền sử dụng đất trực tiếp ký hợp đồng với người mua, người thuê sau khi có đủ điều kiện quy định tại khoản này; trong trường hợp bên tham gia hợp tác kinh doanh đã nhận bàn giao nhà ở và đã có giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với nhà ở được phân chia thì được trực tiếp ký hợp đồng mua bán, cho thuê nhà ở đó theo quy định của Luật Nhà ở và Nghị định này; d Đối với trường hợp huy động vốn theo hình thức quy định tại điểm c và điểm d khoản 1 Điều này mà trong hợp đồng có thỏa thuận phân chia sản phẩm là nhà ở thì chủ đầu tư chỉ được phân chia tối đa cho các hình thức huy động vốn không quá 20% số lượng nhà ở trong mỗi dự án tính trên tổng số lượng nhà ở thương mại của dự án cấp I hoặc dự án phát triển nhà ở độc lập không phải là dự án cấp II không phải thông qua sàn giao dịch bất động sản, nhưng phải thông báo cho Sở Xây dựng nơi có dự án phát triển nhà ở để xác nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 60 của Nghị định này; số lượng nhà ở còn lại trong mỗi dự án này chủ đầu tư phải thực hiện bán, cho thuê theo đúng quy định tại điểm đ và điểm e khoản này; đ Đối với trường hợp huy động vốn theo hình thức quy định tại điểm đ khoản 1 Điều này thì chủ đầu tư chỉ được ký hợp đồng mua bán nhà ở sau khi đã có thiết kế kỹ thuật nhà ở được phê duyệt, đã xây dựng xong phần móng của nhà ở, đã hoàn thành thủ tục mua bán qua sàn giao dịch bất động sản theo đúng quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản và đã thông báo cho Sở Xây dựng nơi có dự án phát triển nhà ở theo quy định tại điểm e khoản này. Việc xây dựng xong phần móng của nhà ở kể cả công trình nhà ở có mục đích sử dụng hỗn hợp quy định tại điểm này được xác định là giai đoạn đã thi công xong phần đài giằng móng bao gồm cả phần xử lý nền nếu có hoặc tới độ cao mặt bằng sàn của tầng thấp nhất của công trình nhà ở đó và được nghiệm thu kỹ thuật theo quy định của pháp luật về xây dựng; e Đối với trường hợp huy động vốn theo hình thức quy định tại các điểm b, c và điểm đ khoản 1 Điều này thì chủ đầu tư phải có văn bản thông báo cho Sở Xây dựng nơi có dự án phát triển nhà ở biết trước ít nhất 15 ngày, tính đến ngày ký hợp đồng huy động vốn. Trong văn bản thông báo phải nêu rõ hình thức huy động vốn, số vốn cần huy động; trường hợp huy động vốn theo hình thức quy định tại điểm b khoản 1 Điều này thì phải nêu rõ diện tích đất sẽ chuyển nhượng, tên chủ đầu tư nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất; trường hợp huy động vốn theo hình thức quy định tại điểm c khoản 1 Điều này thì phải nêu rõ tên, địa chỉ của tổ chức, cá nhân tham gia góp vốn, hợp tác đầu tư, nếu có thỏa thuận phân chia sản phẩm là nhà ở thì phải nêu rõ số lượng, loại nhà ở sẽ phân chia, tên và địa chỉ của tổ chức, cá nhân được phân chia nhà ở; trường hợp huy động vốn theo hình thức quy định tại điểm đ khoản 1 Điều này thì phải nêu rõ số lượng, loại nhà ở nhà ở riêng lẻ, nhà biệt thự, căn hộ chung cư và địa chỉ của nhà ở sẽ bán. Chủ đầu tư chỉ được ký hợp đồng huy động vốn hoặc hợp đồng mua bán nhà ở khi đã có đủ các điều kiện quy định tại Điều này. 4. Chủ đầu tư dự án phát triển nhà ở phải sử dụng vốn đã huy động vào đúng mục đích xây dựng dự án phát triển nhà ở đó, không được dùng số vốn đã huy động vào mục đích khác hoặc sử dụng cho các dự án phát triển nhà ở khác. Những trường hợp huy động vốn không đúng các hình thức và không đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại Điều này thì hợp đồng đã ký không có giá trị pháp lý và bên huy động vốn bị xử lý theo quy định hiện hành. Bộ Xây dựng hướng dẫn cụ thể việc huy động vốn quy định tại Điều này. Ngoài ra Nghị định cũng quy định thẩm quyền phê duyệt dự án nhà ở của UBND các cấp và có những quy định về quyền sở hữu nhà ở của người Việt Nam ở nước ngoài là những nội dung đáng quan tâm. Nghị định 71 cũng đặt dấu chấm hết cho kế hoạch xây nhà mini gây tranh cãi của Cty Đất Lành Bộ XD đã đồng ý chủ trương nhưng UBND nhất định không ủng hộ khi quy định ở điều 43 Trường hợp hộ gia đình, cá nhân xây dựng nhà ở tại đô thị từ hai tầng trở lên mà tại mỗi tầng có từ hai căn hộ trở lên và mỗi căn hộ được thiết kế, xây dựng theo kiểu khép kín có phòng ở riêng, khu bếp riêng, nhà vệ sinh, nhà tắm riêng thì diện tích sàn xây dựng mỗi căn hộ tối thiểu là 30 m2 và phải đáp ứng các quy định về nhà chung cư theo quy định tại Điều 70 của Luật Nhà ở. Bộ Xây dựng cho rằng, vướng mắc tại dự án Khu đô thị cù lao Phước Hưng do chủ đầu tư chưa bố trí đủ nhà ở xã hội theo quy định và UBND tỉnh Đồng Nai có thể điều chỉnh quy hoạch cục bộ theo thẩm quyền – Ảnh Cổng thông tin UBND tỉnh Đồng NaiTheo cổng thông tin Bộ Xây dựng, sau khi nhận được văn bản kiến nghị của UBND tỉnh Đồng Nai tháo gỡ quy hoạch cho các dự án khu dân cư tại thành phố Biên Hòa; văn bản chỉ đạo của Thủ tướng Thủ tướng Chính phủ đề nghị Bộ Xây dựng làm việc trực tiếp với Tập đoàn Novaland nhằm gỡ vướng mắc tại các dự án của Novaland ở Đồng Nai…Bộ Xây dựng đã khảo sát 4 dự án đang vướng pháp lý gồm Khu dân cư Long Hưng, Khu đô thị Waterfront, Khu đô thị Aqua City và Khu đô thị dịch vụ thương mại cao cấp cù lao Phước Hưng. Cả 4 dự án đều thuộc Phân khu C4, khu vực xã Long Hưng và phường Tam Phước, thành phố Biên đoạn 2007-2016, UBND tỉnh Đồng Nai đã duyệt các quy hoạch như quy hoạch chung xây dựng tỷ lệ 1/ xã Long Hưng, quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/ Khu dân cư Long Hưng, khu đô thị dịch vụ thương mại cao cấp cù lao Phước cơ sở đó, UBND tỉnh Đồng Nai đã duyệt quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 cho 4 dự án trên. Sau khi quy hoạch chung năm 2014 được phê duyệt, năm 2016, UBND tỉnh Đồng Nai tiếp tục duyệt quy hoạch Phân khu tại, vướng mắc pháp lý tại 4 dự án chủ yếu là chưa đồng bộ giữa quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết từng dự án so với quy hoạch chung năm 2014; chưa thống nhất việc bố trí các khu chức năng dịch vụ – công cộng cấp đô thị, khu công viên cây xanh – công viên ven sông, Xây dựng tại văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho rằng, 4 dự án thuộc quy hoạch Phân khu C4 đã được các chủ đầu tư triển khai theo các thủ tục đầu tư được chấp đó, bộ kiến nghị Thủ tướng giao UBND tỉnh Đồng Nai xem xét, phê duyệt các nội dung điều chỉnh cục bộ quy hoạch chung thành phố Biên Hòa đến năm 2045 theo thẩm quyền của tỉnh để báo cáo Thủ tướng xem xét việc điều chỉnh một số nội dung quy hoạch phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn áp dụng đối với thành phố Biên Xây dựng đề nghị UBND tỉnh Đồng Nai chỉ đạo rà soát, đánh giá nội dung quy hoạch chi tiết xây dựng các dự án và nội dung điều chỉnh quy hoạch Phân khu C4 bao gồm toàn bộ xã Long Hưng và cù lao Phước Hưng, xã Tam Phước thuộc thành phố Biên dự án Khu đô thị dịch vụ thương mại cù lao Phước Hưng quy mô 286 héc-ta còn vướng mắc thêm về việc bố trí nhà ở xã hội do UBND tỉnh Đồng Nai trước đó đã duyệt quỹ đất nhà ở xã hội của dự án là 27,6 héc-ta, được bố trí trong dự án khu dân cư cho người thu nhập thấp và nhà ở xã hội tại xã Tam Phước, thành phố Biên Hòa của Công ty CP Tràng nhiên, tổng diện tích dự án của Công ty Tràng An được phê duyệt là 46,81 héc-ta và quỹ đất nhà ở xã hội trong dự án chỉ có 22,7 héc-ta, không đủ quỹ đất nhà ở xã hội theo yêu 2020, UBND tỉnh Đồng Nai chấp thuận cho chủ đầu tư Khu đô thị cù lao Phước Hưng chuyển nhượng 5 phân khu thuộc dự án cho các doanh nghiệp với tổng diện tích 249 héc-ta; 37 héc-ta còn lại, chủ đầu tư đề nghị chấp thuận điều chỉnh chủ trương đầu tư thành dự án duyệt quy hoạch chi tiết cho Khu đô thị cù lao Phước Hưng năm 2012, UBND tỉnh Đồng Nai đã cho phép chủ đầu tư không cần dành 20% quỹ đất xây nhà ở xã hội ngay dự án mà bố trí quỹ đất nhà ở xã hội thay thế tại dự án của Công ty Tràng kế thừa quyền và nghĩa vụ từ chủ đầu tư Khu đô thị cù lao Phước Hưng nên tại 5 phân khu đã chuyển nhượng, chủ đầu tư các dự án thành phần không bố trí quỹ đất nhà ở xã Bộ Xây dựng, dự án Khu đô thị cù lao Phước Hưng được chấp thuận chủ trương đầu tư và duyệt quy hoạch chi tiết giai đoạn 2011-2012 nên việc bố trí quỹ đất nhà ở xã hội tại dự án phải được thực hiện theo Nghị định 71/2010/ tỉnh Đồng Nai cho chủ đầu tư bố trí quỹ đất nhà ở xã hội thay thế tại dự án của Công ty Tràng An là không có cơ sở pháp lý, chưa đảm bảo quy định pháp luật về nhà Xây dựng đề nghị UBND tỉnh Đồng Nai rà soát lại hồ sơ pháp lý của dự án Khu đô thị cù lao Phước Hưng và việc không bố trí đủ quỹ đất nhà ở xã hội tại dự án phải báo cáo để Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định theo thẩm ra, UBND tỉnh Đồng Nai chịu trách nhiệm về tính chính xác về số liệu báo cáo, thực tế triển khai đầu tư xây dựng dự án, việc quản lý quỹ đất nhà ở xã hội của dự án, chịu trách nhiệm trước Chính phủ khi chưa thực hiện đúng quy định pháp luật nhà cứ theo các quy định tại Nghị định 71/2010/NĐ-CP, Nghị định 49/2021/NĐ-CP, UBND tỉnh có thể đề xuất phương án bố trí đất phù hợp dành cho nhà ở xã hội trong dự án hoặc trong Phân khu C4, hoặc khu vực lân cận trong thành phố Biên Hòa, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định theo thẩm quyền. Thái Huy Quy định về bán sản phẩm và huy động vốn trong dự án bất động sản Liên quan đến BÁN SẢN PHẨM hay HUY ĐỘNG VỐN của Chủ Dự Án bất động sản, luật và nghị định hướng dẫn luật kinh doanh bất động sản hướng dẫn như sau 1. Điều 9, Nghị định 71/2010/NĐ-CP quy định việc huy động vốn như sau “Điều 9. Huy động vốn để đầu tư xây dựng nhà ở 1. Trường hợp chủ đầu tư dự án phát triển khu nhà ở, dự án khu đô thị mới chủ đầu tư cấp I có nhu cầu huy động vốn để đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật đối với phần diện tích xây dựng nhà ở và đầu tư xây dựng nhà ở trong khu nhà ở, khu đô thị đó thì chỉ được huy động vốn theo các hình thức sau đây a Ký hợp đồng vay vốn của các tổ chức tín dụng, các quỹ đầu tư hoặc phát hành trái phiếu theo quy định của pháp luật để huy động số vốn còn thiếu cho đầu tư xây dựng nhà ở; bên cho vay vốn hoặc bên mua trái phiếu không được quyền ưu tiên mua hoặc ưu tiên đăng ký mua nhà ở; b Ký hợp đồng góp vốn hoặc hợp đồng hợp tác đầu tư với chủ đầu tư cấp II nhằm mục đích chuyển nhượng quyền sử dụng đất có hạ tầng kỹ thuật cho chủ đầu tư cấp II; c Ký hợp đồng, văn bản góp vốn hoặc hợp đồng, văn bản hợp tác đầu tư với tổ chức, cá nhân để đầu tư xây dựng nhà ở và bên tham gia góp vốn hoặc bên tham gia hợp tác đầu tư chỉ được phân chia lợi nhuận bằng tiền hoặc cổ phiếu hoặc được phân chia sản phẩm là nhà ở trên cơ sở tỷ lệ vốn góp theo thỏa thuận; trong trường hợp các bên thỏa thuận phân chia sản phẩm là nhà ở thì chủ đầu tư chỉ được phân chia cho các đối tượng thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam theo quy định của Luật Nhà ở và phải tuân thủ quy định về số lượng nhà ở được phân chia nêu tại điểm d khoản 3 Điều này; d Ký hợp đồng hợp tác kinh doanh với doanh nghiệp có chức năng kinh doanh bất động sản để đầu tư xây dựng nhà ở và bên tham gia hợp tác kinh doanh chỉ được phân chia lợi nhuận bằng tiền hoặc cổ phiếu hoặc được phân chia sản phẩm là nhà ở theo thỏa thuận; trong trường hợp các bên thỏa thuận phân chia sản phẩm là nhà ở thì phải tuân thủ quy định về số lượng nhà ở được phân chia nêu tại điểm d khoản 3 Điều này; đ Huy động vốn từ tiền mua nhà ứng trước của các đối tượng được quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam theo quy định của Luật Nhà ở thông qua hình thức ký hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. 2. Trường hợp chủ đầu tư dự án phát triển nhà ở độc lập kể cả chủ đầu tư cấp II trong dự án phát triển khu nhà ở, khu đô thị mới, công trình nhà ở có mục đích sử dụng hỗn hợp có nhu cầu huy động vốn để đầu tư xây dựng nhà ở thì chỉ được huy động vốn theo các hình thức quy định tại các điểm a, c, d và điểm đ khoản 1 Điều này. 3. Các chủ đầu tư quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này khi thực hiện huy động vốn để xây dựng nhà ở phải tuân thủ các điều kiện sau đây a Đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này thì chủ đầu tư chỉ được ký hợp đồng góp vốn hoặc hợp đồng hợp tác đầu tư với chủ đầu tư cấp II sau khi đã giải phóng mặt bằng của dự án và đã thực hiện khởi công xây dựng công trình hạ tầng kỹ thuật của dự án. Sau khi đã có các công trình hạ tầng kỹ thuật tương ứng với nội dung và tiến độ của dự án thì chủ đầu tư cấp I được ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho chủ đầu tư cấp II. Trong trường hợp chủ đầu tư cấp II có nhu cầu huy động vốn để xây dựng nhà ở trên diện tích đất nhận chuyển nhượng của chủ đầu tư cấp I thì chỉ được ký hợp đồng huy động vốn sau khi đã có hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký với chủ đầu tư cấp I, có thỏa thuận trong hợp đồng về việc chủ đầu tư cấp II được huy động vốn để xây dựng nhà ở và đã có đủ các điều kiện để huy động vốn theo quy định tại khoản này; trường hợp chưa chuyển quyền sử dụng đất từ chủ đầu tư cấp I sang chủ đầu tư cấp II theo quy định của pháp luật về đất đai thì việc huy động vốn phải được chủ đầu tư cấp I đồng ý bằng văn bản; b Đối với trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều này thì chủ đầu tư chỉ được ký hợp đồng, văn bản góp vốn hoặc hợp đồng, văn bản hợp tác đầu tư sau khi đã có dự án phát triển nhà ở được phê duyệt, đã thực hiện khởi công xây dựng công trình nhà ở và đã thông báo cho Sở Xây dựng nơi có dự án phát triển nhà ở theo quy định tại điểm e khoản này; c Đối với trường hợp quy định tại điểm d khoản 1 Điều này thì chủ đầu tư chỉ được ký hợp đồng hợp tác kinh doanh sau khi đã có dự án nhà ở được phê duyệt, đã thực hiện giải phóng mặt bằng, có biên bản bàn giao mốc giới của dự án và đã thông báo cho Sở Xây dựng nơi có dự án phát triển nhà ở theo quy định tại điểm e khoản này. Trường hợp bên tham gia hợp tác kinh doanh được phân chia sản phẩm là nhà ở mà có nhu cầu bán, cho thuê nhà ở đó thì không được trực tiếp ký hợp đồng mua bán, cho thuê mà do chủ đầu tư bên có quyền sử dụng đất trực tiếp ký hợp đồng với người mua, người thuê sau khi có đủ điều kiện quy định tại khoản này; trong trường hợp bên tham gia hợp tác kinh doanh đã nhận bàn giao nhà ở và đã có giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với nhà ở được phân chia thì được trực tiếp ký hợp đồng mua bán, cho thuê nhà ở đó theo quy định của Luật Nhà ở và Nghị định này; d Đối với trường hợp huy động vốn theo hình thức quy định tại điểm c và điểm d khoản 1 Điều này mà trong hợp đồng có thỏa thuận phân chia sản phẩm là nhà ở thì chủ đầu tư chỉ được phân chia tối đa cho các hình thức huy động vốn không quá 20% số lượng nhà ở trong mỗi dự án tính trên tổng số lượng nhà ở thương mại của dự án cấp I hoặc dự án phát triển nhà ở độc lập không phải là dự án cấp II không phải thông qua sàn giao dịch bất động sản, nhưng phải thông báo cho Sở Xây dựng nơi có dự án phát triển nhà ở để xác nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 60 của Nghị định này; số lượng nhà ở còn lại trong mỗi dự án này chủ đầu tư phải thực hiện bán, cho thuê theo đúng quy định tại điểm đ và điểm e khoản này; đ Đối với trường hợp huy động vốn theo hình thức quy định tại điểm đ khoản 1 Điều này thì chủ đầu tư chỉ được ký hợp đồng mua bán nhà ở sau khi đã có thiết kế kỹ thuật nhà ở được phê duyệt, đã xây dựng xong phần móng của nhà ở, đã hoàn thành thủ tục mua bán qua sàn giao dịch bất động sản theo đúng quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản và đã thông báo cho Sở Xây dựng nơi có dự án phát triển nhà ở theo quy định tại điểm e khoản này. Việc xây dựng xong phần móng của nhà ở kể cả công trình nhà ở có mục đích sử dụng hỗn hợp quy định tại điểm này được xác định là giai đoạn đã thi công xong phần đài giằng móng bao gồm cả phần xử lý nền nếu có hoặc tới độ cao mặt bằng sàn của tầng thấp nhất của công trình nhà ở đó và được nghiệm thu kỹ thuật theo quy định của pháp luật về xây dựng; e Đối với trường hợp huy động vốn theo hình thức quy định tại các điểm b, c và điểm đ khoản 1 Điều này thì chủ đầu tư phải có văn bản thông báo cho Sở Xây dựng nơi có dự án phát triển nhà ở biết trước ít nhất 15 ngày, tính đến ngày ký hợp đồng huy động vốn. Trong văn bản thông báo phải nêu rõ hình thức huy động vốn, số vốn cần huy động; trường hợp huy động vốn theo hình thức quy định tại điểm b khoản 1 Điều này thì phải nêu rõ diện tích đất sẽ chuyển nhượng, tên chủ đầu tư nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất; trường hợp huy động vốn theo hình thức quy định tại điểm c khoản 1 Điều này thì phải nêu rõ tên, địa chỉ của tổ chức, cá nhân tham gia góp vốn, hợp tác đầu tư, nếu có thỏa thuận phân chia sản phẩm là nhà ở thì phải nêu rõ số lượng, loại nhà ở sẽ phân chia, tên và địa chỉ của tổ chức, cá nhân được phân chia nhà ở; trường hợp huy động vốn theo hình thức quy định tại điểm đ khoản 1 Điều này thì phải nêu rõ số lượng, loại nhà ở nhà ở riêng lẻ, nhà biệt thự, căn hộ chung cư và địa chỉ của nhà ở sẽ bán. Chủ đầu tư chỉ được ký hợp đồng huy động vốn hoặc hợp đồng mua bán nhà ở khi đã có đủ các điều kiện quy định tại Điều này. 4. Chủ đầu tư dự án phát triển nhà ở phải sử dụng vốn đã huy động vào đúng mục đích xây dựng dự án phát triển nhà ở đó, không được dùng số vốn đã huy động vào mục đích khác hoặc sử dụng cho các dự án phát triển nhà ở khác. Những trường hợp huy động vốn không đúng các hình thức và không đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại Điều này thì hợp đồng đã ký không có giá trị pháp lý và bên huy động vốn bị xử lý theo quy định hiện hành. Bộ Xây dựng hướng dẫn cụ thể việc huy động vốn quy định tại Điều này.” Điều 4, Nghị định 153/2007/NĐ-CP quy định “Điều 4. Mua bán nhà, công trình xây dựng hình thành trong tương lai theo hình thức ứng tiền trước Chủ đầu tư dự án kinh doanh bất động sản và khách hàng được thỏa thuận trong hợp đồng về việc mua bán nhà, công trình xây dựng hình thành trong tương lai theo hình thức ứng tiền trước phải bảo đảm các nguyên tắc và yêu cầu sau đây 1. Việc ứng tiền trước phải được thực hiện nhiều lần, lần đầu chỉ được huy động khi chủ đầu tư đã bắt đầu triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật theo tiến độ và nội dung của dự án đã được phê duyệt. Các lần huy động tiền ứng trước tiếp theo phải phù hợp với tiến độ xây dựng nhà, công trình đó; Đối với dự án khu nhà ở thì ngoài việc phải thực hiện theo quy định nêu trên còn phải thực hiện theo các quy định của pháp luật về nhà ở; 2. Chủ đầu tư phải sử dụng đúng mục đích tiền ứng trước của khách hàng để đầu tư tạo lập bất động sản; 3. Khách hàng ứng tiền trước được hưởng giá mua, giá chuyển nhượng bất động sản tại thời điểm ký hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác; 4. Trường hợp chủ đầu tư giao bất động sản chậm tiến độ ghi trong hợp đồng thì phải chịu trách nhiệm với khách hàng theo hợp đồng và phải trả cho khách hàng một khoản tiền lãi của phần tiền ứng trước tính theo lãi suất vay ngân hàng thương mại tại thời điểm giao bất động sản tương ứng với thời gian chậm tiến độ; Trường hợp chủ đầu tư giao nhà, công trình xây dựng không đúng chất lượng, thời hạn và các cam kết trong hợp đồng thì chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm với khách hàng; khách hàng có quyền yêu cầu chủ đầu tư có biện pháp khắc phục kịp thời và bồi thường thiệt hại do lỗi của chủ đầu tư gây ra, nếu chủ đầu tư không thực hiện thì khách hàng có quyền đơn phương chấm dứt hoặc huỷ bỏ hợp đồng và chủ đầu tư phải hoàn trả toàn bộ số tiền khách hàng đã ứng trước và một khoản tiền lãi của phần tiền ứng trước theo lãi suất vay ngân hàng thương mại; 5. Trường hợp khách hàng không thực hiện đúng cam kết về việc ứng tiền trước trong hợp đồng thì phải chịu trách nhiệm với chủ đầu tư theo hợp đồng và phải trả cho chủ đầu tư một khoản tiền lãi của số tiền chậm trả tính theo lãi suất vay ngân hàng thương mại tại thời điểm trả tiền tương ứng với thời gian chậm trả. Chủ đầu tư có quyền yêu cầu khách hàng thực hiện đúng các cam kết trong hợp đồng và bồi thường thiệt hại do lỗi của khách hàng gây ra, nếu khách hàng không thực hiện thì chủ đầu tư có quyền đơn phương chấm dứt hoặc huỷ bỏ hợp đồng, khách hàng chịu phạt theo hợp đồng và chịu trách nhiệm về thiệt hại do việc vi phạm hợp đồng gây ra; 6. Việc chọn lãi suất vay ngân hàng thương mại quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều này phải được thỏa thuận trong hợp đồng.” >> Tư vấn luật bất động sản cho doanh nghiệp

nghị định 71 bất động sản